Thuyết phục người khác ra sao?



Biết cách thuyết phục người khác, bạn không chỉ thuận lợi trong công việc, đạt được các mục tiêu mà còn có thể hóa giải các vấn đề phức tạp trong cuộc sống.

Trong vai trò giám khảo chương trình truyền hình Chìa khóa Thành công, chuyên gia đào tạo nhân lực Ngô Thanh Thủy – hiện là Giám đốc khối các định chế tài chính Việt Nam, Ngân hàng ANZ. từng nói với các bạn trẻ “Trong tất cả các kỹ năng mềm, kỹ năng thuyết phục rất quan trọng”. Dù bạn đầy năng lực nhưng khi mọi người không lắng nghe bạn nghĩa là bạn sẽ nhanh chóng bị cô lập, sẽ trở thành kẻ bại trận, bị đào thải thậm chí phải tự “đào ngũ” bởi không chịu nổi áp lực.

Tuy nhiên, các chuyên gia tâm lý cho rằng, thuyết phục người khác là cả một nghệ thuật. Có những nguyên tắc, phương pháp mà bạn cần nắm rõ trước khi muốn thuyết phục người khác.

Về nguyên tắc:

Đừng chọc tổ ong: khi muốn thuyết phục ai đó, điều quan trọng là bạn không được “chọc tổ ong”, tức không được chỉ trích, lên án, phê phán ý tưởng, ý kiến của người khác. Vì khi bị công kích, mỗi người dễ có tâm lý “xù lông” lên để phản kháng, bất kể đúng sai.

Tùy cơ ứng biến: do mỗi người có tính cách, tình cảm, đặc điểm tâm sinh lý khác nhau nên trong thuyết phục, phải tùy cơ ứng biến, không được sử dụng một công thức, một phương pháp chung cho tất cả.

Tác động lên suy nghĩ: Vì hành động bị quyết định bởi suy nghĩ-cảm xúc nên theo các nhà tâm lý, muốn thuyết phục thành công, mỗi người phải biết cách tác động lên suy nghĩ, cảm xúc của đối tượng.

Về phương pháp: Có rất nhiều phương pháp để thuyết phục người khác nhưng chung quy, có 2 phương pháp chính.

Đốt lửa: Đó là bạn phải biết khơi gợi, nhóm lên động lực, nhu cầu hành động để người khác tự nguyện nghe theo bạn.

Một cậu bé được bố yêu cầu phải sơn xong hàng rào trong buổi sáng. Cậu bé không thích công việc này và định sẽ nhờ người khác hỗ trợ. Nhưng khi cậu mở lời, không ai chịu giúp cậu cả. Câu bé suy nghĩ và quyết định thay đổi chiến thuật. Khi thấy một người bạn khác từ xa đi lại, đang sơn rào trong trạng thái uể oải, cậu bé lập tức đẩy nhanh tốc độ, vẻ mặt say sưa, hào hứng. Người bạn kia thấy vậy ngạc nhiên. Cậu bé bảo, sơn rào thích lắm, tuyệt lắm. Thế là đứa bạn tò mò, muốn trải nghiệm thử và tình nguyện sơn rào cho cậu. Cậu bé áp dụng chiêu này với nhiều bạn khác và ai cũng tự nguyện làm giúp.

Tò mò, muốn trải nghiệm thử là một trong những đặc tính thuộc về nhu cầu phát triển bản thân, rất thường thấy nơi mỗi người. Ông Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu, giảng viên tâm lý, ĐH Sư phạm TPHCM khẳng định, khi thuyết phục người khác dựa trên nhu cầu này, khả năng thành công thường cao. Ngoài ra, mỗi người đều còn có nhu cầu tự trọng nên trong thuyết phục, cần dựa trên cơ sở nhìn thấu những đóng góp của người khác, khen ngợi chân thành, ghi nhận, tôn vinh…người khác.

Tác động lên cảm xúc yêu thương của người khác cũng là một cách thuyết phục hiệu quả. Người khác có thể không thích điều ấy nhưng vì thương yêu bạn, nể phục bạn, quý trọng bạn… họ sẵn sàng nghe theo bạn.

Ai cũng muốn được sống trong cảm giác an toàn. Vì thế, nếu bỗng nhiên có ai đó la lên và bỏ chạy, ông Hiếu khẳng định, đa số người xung quanh cũng sẽ nháo nhào chạy theo. Mọi người còn có tâm lý hành động theo số đông để tránh cảm giác bị cô lập, ghẻ lạnh.

Thuyết phục qua thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng là một cách. Tuy nhiên, các chuyên gia lưu ý, nếu họ không thích vật chất mà bạn dùng vật chất để lôi kéo thì không thành công. Rõ ràng, để thuyết phục thành công, phải căn cứ trên nhu cầu cụ thể của đối phương.

Truyền lửa: Đây là nghệ thuật thuyết phục bằng sự say mê của chính bạn. Bởi theo nguyên tắc lay lan tình cảm, khi bạn trình bày công việc, dự án với sự nhiệt huyết cao, người khác cũng dễ hào hứng theo bạn.

Ngoài ra, mỗi người còn có thể thuyết phục người khác qua cơ chế ám thị, tức mặc nhiên áp đặt. Tuy nhiên, theo ông Hiếu, hiệu quả của phương pháp này còn tùy vào uy tín, sức hấp dẫn của người thuyết phục và niềm tin, thể trạng của người bị thuyết phục. Bởi trong tâm lý học, những người đang mệt mỏi dễ “đầu hàng” và người ta dễ đồng ý khi đứng trước những người có sức quyến rũ.

Kỹ năng thuyết phục còn có thể dựa vào các cụm từ vuốt đuôi. Chẳng hạn, khi muốn ai đó đồng ý, bạn đừng dùng từ “không” ở cuối câu. Thay vào đó, nên là “chứ”. Bạn cũng có thể dùng lý lẽ để thuyết phục. Nhưng nguyên tắc của phương pháp này là nên thừa nhận lý lẽ của người khác trước và dựa trên lý lẽ của người khác để đưa ra những lập luận có lý. Ví dụ, nếu ông bố cho rằng con nên học sư phạm vì ngành sư phạm nhàn hạ, hợp với con gái. Người con có thể thuyết phục lại bằng cách chỉ ra, sư phạm tuy hợp với con gái nhưng tính con nóng nảy, không kiên nhẫn, không có kỹ năng truyền đạt thì khó dạy được học sinh.

Mỗi người cũng có thể quan sát các tín hiệu phi ngôn ngữ để thuyết phục người khác. Đơn cử, một nụ cười tươi, cái nhìn sâu vào mắt người khác, những tiếp xúc, đụng chạm như bắt tay, vỗ vai, chạm nhẹ bàn tay dễ khiến người khác mềm lòng và thành thật hơn. Ngược lại, nếu ai đó khoanh tay, gõ gõ, xoay bút hoặc làm một động tác thừa nào đó, nghĩa là câu chuyện của bạn đang tẻ nhạt, chưa đủ thuyết phục họ.

Nhưng trên hết, các chuyên gia nhấn mạnh, bạn cần thuyết phục bằng sự chân thành. Không có sự chân thành, mọi kỹ thuật, phương pháp đều vô nghĩa.


Hà Thy - CareerLink.vn

Nghệ thuật thuyết phục người khác

Ra lệnh, dọa nạt, đề nghị... Biết cách thuyết phục người khác thực hiện mệnh lệnh và yêu cầu của mình là cả một nghệ thuật.

Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản để “sai khiến” người khác dễ dàng.


Ân huệ hay “tôi giúp anh, anh giúp tôi”


Các nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng người ta luôn sẵn sàng giúp đỡ người nào đã làm gì đó giúp mình.

Theo Octavius Black, giám đốc điều hành công ty The Mind Gym, cần phải luôn “đầu tư” ân huệ vào những người khác để khi cần có thể sử dụng lòng hàm ơn từ phía họ.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý không nên quá lạm dụng phương pháp này vì mọi sự “gợi nhớ” thái quá đến “món nợ” đều có thể gây phản tác dụng.

Có điểm tương đồng

Steve Martin, Giám đốc công ty tư vấn và đào tạo Influence at Work cho rằng “đồng nghiệp sẽ dễ dàng tiếp nhận bạn nếu họ biết rằng giữa bạn và họ có điểm gì đó tương đồng”.

Nếu có thể, bạn nên tìm hiểu lý lịch và con đường sự nghiệp của đồng nghiệp từ trước. Hoặc cũng có thể tham khảo 4 nguyên tắc sau của chuyên gia Gleb Zheglov:

Thứ nhất: Luôn giữ nụ cười khi giao tiếp với người khác. Đây là nguyên tắc hàng đầu khiến người khác có cảm tình với bạn.

Thứ hai: Chăm chú lắng nghe người đối thoại và cố gắng để anh ta được kể về bản thân

Thứ ba: Cố gắng càng nhanh, càng tốt tìm được một đề tài gần gũi với người đối thoại và làm anh ta quan tâm

Thứ tư: Ngay từ phút gặp mặt đầu tiên hãy thể hiện niềm quan tâm chân thành với người đối thoại. Điều này có nghĩa là cố gắng “thâm nhập” vào anh ta để hiểu mọi góc cạnh. Một khi người đối thoại đã hưng phấn, bạn sẽ được nghe tất cả.

Nhiều công ty đã đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng “đội hình”, tìm kiếm các lợi ích chung, tổ chức các hoạt động tập thể để các nhân viên cùng tham gia.

Sức mạnh của uy tín

Steve Martin nhận định: “Sẽ dễ dàng thuyết phục người khác thực hiện yêu cầu của bạn hơn rất nhiều nếu anh ta coi bạn là một chuyên gia trong lĩnh vực của mình. Nếu bạn không có cơ hội thể hiện trực tiếp thì nên nhờ một ai đó có cùng chuyên môn giới thiệu bạn với đối tác. Tuy nhiên, cần lưu ý uy tín cá nhân cần được thường xuyên giữ gìn để tránh trường hợp “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”.

Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, uy tín cá nhân có sức ảnh hưởng rất lớn tới những người xung quanh. Lớn đến mức một nghiên cứu đã kiểm chứng rằng nếu một lãnh đạo có uy tín sang đường vượt đèn đỏ thì nhân viên của họ cũng sẵn sàng đi theo.

Sẽ dễ dàng thuyết phục người khác thực hiện yêu cầu của bạn hơn rất nhiều nếu anh ta coi bạn là một chuyên gia trong lĩnh vực của mình.

Cảm tình

Tâm lý chung của con người là luôn sẵn sàn nói “đồng ý” với người mình thích. Đây là điều không cần phải tranh cãi.

Tuy nhiên, công việc ở công sở có kỷ luật nhất định. Vì thế nhà lãnh đạo phải quan tâm đến việc tạo dựng không khí tích cực, tăng cường mối thiện cảm nhưng không được nhầm lẫn giữa công việc chung với các mối quan hệ hữu nghị.

Và cuối cùng

Steve Martin khuyên “nhà lãnh đạo cần nêu rõ yêu cầu,nhấn mạnh tính phức tạp và những thiệt hại có thể xảy ra với công ty. Điều này rất quan trọng vì tâm lý chung của con người là thường suy nghĩ nhiều và nghiêm túc về những cái có thể mất hơn là những cái đạt được”.

Có một điều chung nhất là để “sai khiến” được người khác, bạn phải thật thà. Nếu tính không trung thực của bạn bị phát giác thì bất cứ yêu cầu hay lời ngụy biện nào sau đó đều gây nên mối nghi ngờ.

Một lời khuyên cuối cùng là không nên đưa ra các yêu cầu hoặc đòi hỏi quá mức.
Theo Lao động

Luận bàn về chữ Nhẫn


Có người nói rằng: “Trong chữ Nhẫn của người Trung Quốc, có hình tượng một quả tim, một con dao, và những giọt máu. Do vậy các cụ nói sống phải biết nhẫn nhịn dù cho dao đâm vào tim chảy máu thì vẫn phải nhẫn nhịn thì cơ sự mới lành.”

Có người nhìn thấy chữ Nhẫn lại bảo: “Thiền đấy! – Chữ Trung Quốc vốn là chữ tượng hình, nếu để ý các bạn sẽ thấy chữ nhẫn giống hình một người đang ngồi Thiền. Thiền cần Nhẫn. Học Thiền để học Nhẫn. Chữ Nhẫn là kiên tâm nhẫn nại. Bền lòng nhịn nhục được thì cái tâm mới an định, nhất là về phương diện tu hành đạo đức, phải thực hành chữ nhẫn trước tiên.”

Có người lại trích lời Ðức Khổng Tử “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” và suy ra rằng việc nhỏ mà chẳng nhịn thì cái mưu lớn ắt phải hư hoại. Ở đời ta thường thấy những việc nhỏ bằng sợi tóc, vì không nhịn được mà xảy ra sóng to gió lớn, nhiều khi gây nên tai họa giết hại lẫn nhau, là do chẳng chịu nhẫn mới sinh ra nông nỗi.

Có tích xưa: “Ông Quách Tử Nghi, đời nhà Ðường khi còn nhỏ đang đi học, một hôm ông xem kinh Phật thấy câu “Hắc phong xuy châu phiêu nhập chi khổ hải” nghĩa là luồng gió đen thổi chiếc thuyền trôi vào trong biển khổ. Ông không hiểu ý câu ấy ra sao, bèn đến hỏi một hòa thượng. Vị hòa thượng thấy hỏi như vậy, thì thịnh nộ mắng ông Quách Tử Nghi rằng còn con nít biết gì mà dám hỏi những câu đó. Ông Quách Tử Nghi thấy vị hòa thượng trả lời như vậy thì nổi giận hầm hầm tím mặt. Lúc ấy vị hòa thượng bèn ung dung cười mà cắt nghĩa cho ông Quách Tử Nghi biết rằng: “Sự thịnh nộ của công tử từ nãy đến giờ tức là luồng gió đen thổi chiếc thuyền trôi vào biển khổ đó…” Ông Quách Tử Nghi hồi tâm tỉnh ngộ, bèn chắp tay tạ ơn vị hòa thượng, đã dùng một cách gián tiếp mà chỉ giáo.

Có sách kể Tử Trương hỏi Ðức Khổng Phu Tử về chữ Nhẫn. “Tử Trương dục hành từ ư Phu Tử, nguyện tứ nhứt ngôn vi tu nhân chỉ yếu”. (Tử Trương muốn đi làm việc chân chính bèn đến từ tạ Ðức Khổng Phu Tử, xin cho một lời để làm phép sửa mình.) Phu Tử viết: “Bá hạnh chi bổn nhẫn chi vi thượng”. (Trăm nết chung gốc chỉ có chữ Nhẫn là cao thượng hơn hết.) Tử Trương hỏi: “Hà vi nhẫn chi.” (Tại sao mà phải nhịn”. Phu Tử viết:

“Thiên Tử nhẫn chi quốc vô hại,
Chư hầu nhẫn chi thành kỳ đại.
Quan lại nhẫn chi tấn kỳ vị,
Huynh đệ nhẫn chi gia phú quý,
Phu phụ nhẫn chi chung kỳ thế,
Bằng hữu nhẫn chi danh bất phế,
Tự thân nhẫn chi vô họa hoạn.”

(Làm Vua mà biết nhịn thì trong nước không có điều tai hại, bậc chư hầu mà biết nhịn thì nên nghiệp lớn. Bậc quan lại mà biết nhịn thì phẩm vị đặng cao thăng. Anh em biết nhịn với nhau thì nhà cửa đặng giàu sang. Chồng vợ biết nhịn thì niềm ân ái mới đặng trọn đời. Bè bạn biết nhịn thì danh nghĩa chẳng hư, còn thân của mình mà biết nhịn chẳng lo tai họa.)

Tử Trương hỏi: “Bất nhẫn hà như”. (Còn chẳng nhịn thì ra sao?) Phu Tử viết:

“Thiên Tử bất nhẫn quốc khống hư

Chư hầu bất nhẫn tán kỳ xu

Quan lại bất nhẫn hình phạt tru

Huynh đệ bất nhẫn cát phân cư

Phu phụ bất nhẫn tình ý sơ

Tự thân bất nhẫn hoạn bất trừ.”

(Làm Vua mà chẳng nhịn thì nước phải trống không. Bậc chư hầu chẳng nhịn thì hư bại thân mình. Bậc quan lại không nhịn thì phải chịu hình phạt. Anh em chẳng biết nhịn nhau, thì chia của cắt nhà phân ly thủ túc. Chồng vợ chẳng nhịn thì tình nghĩa phai nhạt. Còn bản thân mình mà chẳng biết nhịn thì mọi việc hoạn họa chẳng dứt…)

Nghe Ðức Khổng Tử giải nghĩa xong, Tử Trương ngậm ngùi mà than rằng: “Phải lắm, phải lắm, thật là khó thay nếu không có chí kiên nhẫn thì cũng khổ cho bổn phận làm người.”

Trong Kinh Hoa Nghiêm có câu rằng: “Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”. Một phen cơn giận nổi lên thì muôn ngàn nghiệp chướng nảy sinh. Trong các kinh sách của Phật dạy nhân sinh lấy chữ Nhẫn làm đầu, mà nhiều người mơ màng chưa tỉnh ngộ. Sau một trận giông tố, ắt phải có cây ngã, nhà sập, thuyền tàu chìm Còn người trải qua những cơn thịnh nộ rồi, thường có xảy ra lắm điều tai ương hoạn họa, khi biết tu tỉnh ăn năn thì việc đã muộn rồi.

Ngày xưa ông Trương Công Nghệ chín đời cùng ở với nhau một nhà. Có câu: “Trương Công Nghệ cửu thế đồng cư”. Vợ chồng con cháu có mấy trăm người mà trọn đời chưa có điều chi xích mích, trong gia đình bao giờ cũng đấm ấm như khí hòa mùa xuân. Ngày kia Vua nghe tin bèn ngự giá đến nhà ông mà hỏi rằng: “Nhà của ngươi dùng cách gì mà trong gia đình vui vẻ thuận hòa với nhau như vậy?” Ông Trương Công Nghệ bèn viết một chữ NHẪN thật lớn lên trên một tờ giấy mà dâng lên Vua… Vua xem rồi lấy làm kính phục, liền ban cho ông một trái lê thử coi ông xử sự ra sao. Ông bèn sai người cắt trái lê bỏ vào trong cái thùng lớn đổ nước nấu sôi, rồi kêu tất cả người trong nhà đến, cho mỗi người một muỗng, để gọi là chung hưởng ân Vua.

Nhà của ông có nuôi một trăm con chó, đến bữa ăn nếu thiếu một con thì cả bầy đều không ăn đứng đợi….

Quyền năng của chữ nhẫn

Từ những kinh nghiệm xương máu của thực tế cuộc sống mà người Hán đã sáng tạo ra cách viết chữ nhẫn: chữ đao (con dao) ở trên và chữ tâm (con tim) ở dưới. Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…

Trong kinh điển, người biết nhẫn nhục, chính là người mạnh nhất. Còn theo thánh Gandhi: “Nhẫn nhục ví như không khí, chẳng biết chống trả, nhưng có khả năng vô hiệu hóa những quả đấm của kẻ bạo tàn!”

Vì thế mà người xưa đã tốn rất nhiều giấy mực để viết về nó, đã răn dạy rất nhiều những lợi ích và tác hại xung quanh chữ nhẫn này. Thời hiện đại ngày nay thì sao?

Nhẫn không phải là sự cam chịu tiêu cực.

Đúng vậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà chữ nhẫn lại có bộ đao phía trên như biểu hiện của những nỗi thống khổ sâu sắc như dao nhọn, chúng có thể khía vào trong tâm trí, trong con tim ta, làm cho ta đau đớn, tủi nhục và khó chịu.

Nhưng, nhẫn, đừng nên hiểu một cách tiêu cực, là phải gồng mình cam chịu ôm nhục, là luồn cúi để đạt được mục đích. Nếu có chuyện không hay, hãy dùng trí tuệ để thấy đúng lẽ thật, buông xả mọi hơn thua với người ta và không cố chấp phiền hận.

Người “chửi” mình, nếu đúng thì nhận, nếu không phải thì xả bỏ. Chứ nếu nhớ suốt đời, thì tự mình chuốc lấy cái khổ cho mình và còn làm cho người khác khổ lây.

Tóm lại, chữ nhẫn ngoài sự chịu đựng điềm tĩnh còn cần phải có sự tha thứ, phải có từ – bi – hỷ – xả. Nhẫn là độ lượng, khoan dung, nhận đúng bản chất mà kiên tâm nhẫn nại… Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người.
Khổng Tử xưa đã nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Việc nhỏ mà không nhẫn được, thì việc lớn ắt sẽ hỏng).
Nhiều gia đình thường treo chữ nhẫn trong nhà, như tự răn mình để giữ được hòa khí trong gia đình. Nhịn đi có một sự, đổi lại được những chín điều lành.

Vậy nên, anh em có tranh nhau tí đất đai, vợ chồng có nổi cơn tam bành, có “hận” sếp, có xích mích gì với hàng xóm, có bị ai “chơi xấu” đi nữa, thôi thì nhẫn đi.

Con tim nhức nhối lắm, khi thấy mình phải chịu đựng thua thiệt, phải kém chị kém em, thành ra hậm hực, tức tối nổ con ngươi con mắt chỉ vì những thứ nhỏ nhặt.

Người ta có cái ví đầm hàng hiệu xịn hơn, thế là phải đua đòi chẳng kém cạnh gì, kẻo mang tiếng “quê”! Hoặc người ta xe nọ xe kia, nếu mình không có, thì đau buồn mà bi luỵ trách móc số sao mãi chả giàu để được làm… đại gia.

Mẹ chồng hủ lậu, lắm lời… cẩn thận đấy! Ra đường, nhẫn á, nhịn á, ganh nhau đến từng chỗ đỗ xe trước đèn xanh đèn đỏ, còi bấm cứ là nhức cả óc. Tông xe vào nhau, là gầm gừ như chuẩn bị xuống cắn xé nhau ngay!
Đến cái chuyện quyền lợi hay tiền nong, ai mà động chạm, thì cứ liệu hồn. Tốt nhất là nên việc ai người đấy làm, tiền ai người ấy hưởng, chứ ức chế quá, là xử lý nhau ngay.

Nhẹ thì bằng bom thư, cao hơn nữa, sẽ được chọn làm đối tượng để buôn dưa lê, nặng thì đơn kiện nặc danh, tệ hơn là thuê xã hội đen dằn mặt…

Thuở phong kiến, chồng có là nông dân thì vợ cũng phải hầu như hầu ông chủ; thời này, chồng mà lười biếng, lại mắc tính loăng quăng bồ bịch, cờ bạc thì dè chừng! Vợ mà đỏng đảnh, hay “không biết đẻ”, hay nọ kia, lơ mơ là ông quăng quần áo ra ngoài đường.

Cho nên, kết hôn cũng nhanh, mà chia tay, ly dị cũng quá lẹ. Chẳng có vấn đề gì phải kéo dài những mấy chục năm. Thời này, chữ nhẫn là chữ gì mà đòi hỏi phải mất thời gian đến vậy?

Nhẫn cũng không phải là nhục một cách hèn nhát.

Thời xưa, vua Câu Tiễn nằm gai nếm mật, nuốt mọi tủi nhục chỉ để chờ thời cơ làm nên chuyện lớn. Như vậy, cái chữ nhẫn nhục trở thành động cơ sống, thành quái chiêu của một số người nhằm đạt đến mục tiêu cần thiết của họ.
Ngược lại, chữ nhẫn như trái tim bồ tát của Quan Âm Thị Kính khi bị “vu oan” mọi bề, lay động thân tâm của con người, đó là:

“Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa/ Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu…”

Nhẫn ngày nay, nhiều khi đã thành nhẫn nhục một cách hèn nhát. Nhẫn quá, thành ra… nhục. Nó là điều sỉ nhục, làm xấu hổ, tổn thương đến lòng tự ái của mình.

Nhục, bởi vì sợ quyền thế, nhục vì đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được, nhục để mong cầu có người khen, hay được chức trọng, quyền cao, nhẫn nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho mình cao hơn người, không thèm chấp nê, phản đối.

“Tránh voi chẳng xấu mặt nào…”, nhiều khi thấy cái sự bất bình ra đấy, nhưng chẳng liên quan đến ta, thì ta “mackeno”. Cái sự nhịn ấy, xem phần nó cũng mang tính AQ, rằng thôi, nhịn đi một tí, chết ai!

Hiểu sai chữ nhẫn nhất là khi ghép chữ nhẫn với chữ tâm, để trở thành nhẫn tâm, ác độc. Cũng như hiểu chữ nhẫn với thói quen chịu đựng đến mức hèn yếu, bạc nhược hết ngày này, qua tháng khác, và cơ đồ sự nghiệp, thành quả chẳng thấy đâu, chỉ thấy con người ngày càng èo uột đi, thảm hại, nhưng họ vẫn tự ru mình là ta đang… nhẫn một cách chính đáng.

Nhẫn nhục một cách hèn nhát, là mềm yếu, cam chịu vô ích, rồi tự mình chìm trong cái cõi mịt mờ của mình, sẽ thành kẻ chui sâu vào vỏ ốc, và điều này sẽ làm suy thoái xã hội, đạo đức con người, làm cho cái ác, cái tham, cái xấu có mầm mống và nguy cơ phát triển.

Nhẫn nhục như thế, theo thuyết nhà Phật, là nhẫn nhục chấp tướng vì vẫn còn do dục vọng và lòng tham thúc đẩy chứ không phải nhẫn Ba La Mật.

Nhưng nếu không biết nhẫn, bạn sẽ có một khuôn mặt… xấu xí

Nếu không biết giữ được cho mình một chữ nhẫn, lúc nào đầu óc cũng căng ra, như một chảo lửa, ta có thể phản ứng ngay tức khắc các vấn đề vừa xảy ra một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ…

Gặp chuyện khó chịu, không may, tức khắc lửa giận nổi lên, nếu nhẹ thì chỉ bộc lộ ra sắc mặt, hành động nóng nảy, nhưng nặng và đáng sợ hơn nữa, đó là để chất chứa trong lòng.

Những cơn nóng giận ấy khiến cho khuôn mặt bỗng trở nên rất xấu. Đôi khi, chẳng những không giải quyết được việc gì, mà còn tự tạo thêm những hành động nông nổi, gây thêm bực bội đúng như các cụ đã nói: “Tâm oán giận, mạnh hơn lửa dữ”.

Thật vậy, chỉ một phút nổi nóng, không tự kìm chế được mình mà không dằn được cơn tức giận, nghĩa vợ chồng phải phân rẽ, bạn bè trở thành kẻ oán thù, và mâu thuẫn dẫn đến xung đột (đánh đập vợ con đến tàn tật, vợ giết chồng, con giết cha, đốt phá nhà cửa, tự hủy hoại thân thể mình…).

Có một chị kể rằng, thời mà chị chưa ly hôn, chị đi “đánh” ghen. Đêm hôm, không thấy chồng về, trong một đêm mùa đông giá rét, chị quyết định lôi con nhỏ mới hai tuổi, đặt lên đằng sau xe, đèo con đến nhà nhân tình của chồng, và căm phẫn đập cửa ầm ầm…

Sau này, chị tự nhận ra rằng, chẳng phải vì thương con không có cha, chẳng phải lý do gì, ngoài lòng ích kỷ và hận thù nên chị quyết không ly dị. Cũng chỉ vì chị không nhẫn được, cơn nóng bốc lên đầu và chỉ còn nỗi căm hận.

Cho dù đã bao lần, chị tự dặn mình rằng, đừng để con cái nghe thấy tiếng của hai vợ chồng cãi nhau. Nhưng biết sao được, khi cơn sân hận dâng lên, tiếng chì chiết, cãi vã, lẫn xỏ xiên, thậm chí thượng cẳng chân, hạ cẳng tay ngay trước mắt con cái, vô tình họ đã trở thành một bằng chứng xấu xí của hôn nhân.

Và nếu trước kia, chị nhất quyết không ký đơn ly dị để “hành hạ”, trả hận với chồng, thì sau khi đã hiểu ra: nhẫn không phải là chịu đựng, mà nhẫn còn là xả bỏ những nỗi nhọc nhằn, uất hận, những đau buồn tủi nhục, để cuộc sống dễ chịu hơn, chị đã ký đơn ly dị, nhằm giải thoát cho cả gia đình thoát khỏi cảnh “địa ngục trần gian”.

Chữ nhẫn giống như vàng.

Đọc kỹ những câu răn về chữ nhẫn, ta sẽ thấy, muôn màu cuộc sống bày ra trong sức mạnh của chữ nhẫn. Chữ nhẫn ẩn chứa những phương kế sống của một đời người.

“… Có khi nhẫn để xoay vần/ Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa/ Có khi nhẫn để vị tha/ Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù/ Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu/ Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường/ Có khi nhẫn để vô thường/Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai/ Có khi nhẫn để lắng tai/ Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng/ Có khi nhẫn để bao dung/ Ta vui người cũng vui cùng có khi/ Có khi nhẫn để tăng uy/ Có khi nhẫn để kiên trì bền gan…”.

Việc lấy đức nhẫn làm sức mạnh (dĩ nhẫn vi lực) cho thấy lợi ích cũng như quyền năng biến hóa, nội lực mạnh mẽ của chữ Nhẫn.

Trong cuốn “Luận về chữ nhẫn” của Mạnh Chiêu Quân có viết: “Chớ nên cáu gắt, cáu gắt sẽ làm tổn thương hòa khí; Chớ nên tức giận, tức giận sẽ làm hủy hoại nguyên khí; Chớ nên đùa giỡn, đùa giỡn sẽ làm hỏng tài khí; Phải nhẫn nhịn, nhẫn nhịn sẽ được thần khí”…

Cũng như câu tục ngữ của Việt Nam: “Chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được, thì càng sống lâu”. Tự tìm được cho mình một chữ nhẫn thích hợp sẽ giúp ích cho cuộc sống, và nếu biết sử dụng chữ nhẫn sao cho đúng cách, sẽ mang lại cho con người một sức mạnh vô biên!

Hồng Thu (24681)

LÀM SAO ĐỂ THA THỨ


Dương Phú Cường
Không hiểu sao mình không thích người ấy! Có điều gì bất ổn giữa mình với họ. Chuyện rất bình thường ở cuộc đời mà đôi lần làm lòng ta đau nhói!

Không hiểu sao mình thương người ấy? Thích ở gần, thích chuyện trò, thích những cử chỉ thân mật, thích gắn kết! Vì sao kỳ lạ vậy? Khi vừa gặp là mình đã vui, người xưa gọi là họ có duyên với nhau?

Không hiểu sao mình ghét người ấy, mặc dầu họ không làm hại gì mình? Sự ghét thương nằm sâu kín trong lòng, như có sẳn từ muôn kiếp trước.
Không hiểu sao mình thù người ấy mãi trong lòng, mỗi khi nhớ đến thì lòng căm giận! Sự thù hận đầy ắp trong trái tim mình không thể nào xoá được?

Đó là sự ghét thương, đó là bảy thứ tình, gọi là thất tình. Ẩn sâu kín trong lòng người, thường tỉnh thức sẽ thấy nó thường hiển hiện. Đó là nơi cần chuyển đổi và tu sửa, là nơi sẽ trả lời trước Trời đất.

Dẫu với ai, Thiên Chúa đòi con “khi dâng của lễ nếu trong lòng còn giận bất cứ ai thì hãy để đó và đi làm hoà với anh em rồi hãy dâng lễ” nếu không chả ích lợi gì? Dâng lễ không quan trọng bằng hoà bình giữa anh em! Hoà trong lòng, trong tâm hồn chứ không phải hoà ở dấu chỉ bên ngoài. Vì Chúa biết bên trong mà không cần ngó bên ngoài, đừng lừa ngài như lừa nhân loại, ngài biết sự thật lòng nơi con người. Khó ở chổ đó! Nếu không thường thấy lòng mình thì không thể thay đổi được.

Trong đời vạn cảnh, biến ảo chao động, đảo điên…sự thù hận không dứt, ghen ghét đố kỵ không ngừng. Yêu thương, khinh ghét, ưa chuộng, tránh xa, ham thích…luôn thường biến hiện. Ai ngăn trở thì dẫn đến khinh ghét thù hận.

Sự thật người với người cũng ít khi dẫn đến thù hận sâu xa, nhưng thường xa lánh, tránh mặt … nhưng Thiên Chúa lại muốn con người đối diện nhau như: “Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống, Ta mình trần các ngươi không cho mặt, Ta tù đày các ngươi đã không viếng thăm”, sự hiện diện thỏa mãn nhu cầu của anh em, chứ không phải chỉ có mặt là đủ. Khốn nổi là Ngài không có cho chúng ta loại trừ một số người mà con không ưa mà là tất cả, trong đó có bọn con cả đời không muốn gặp nữa? Than ôi khó quá Chúa ơi, e rằng không thể được!

Nếu không được thì Ta không biết ngươi?

Trời ạ, nghiệt ngã quá, khó khăn để vào Nước Trời quá.
Ngay đây chúng ta phải giải quyết: bằng cách nào để tha thứ cho kẻ thù ta?
Vì nếu không tha, thì dù xưng tội, dù tham dự thánh lễ, dù suy niệm Tin Mừng, dù có chức thánh, dù trọn đời trinh tiết, dù thề một vợ một chồng, dù ăn chay ngày thứ sáu hàng tuần, dù đọc kinh tối luôn luôn, dù làm giáo sĩ đạo cao đức trọng, dù cả đời không lăng nhăng với các bà các ông, dù năng lần hạt như mẹ Maria thường dạy…. Vẫn không vào được Nước Trời. 

Đọc thêm một câu Phúc âm cho chắc có đúng như thế không? Thưa thầy con phải tha mấy lần? Chúa nhìn con! sao con hỏi tha mấy lần? Khỏi đếm con ơi, đếm chi cho mệt, “bảy mươi lần bảy”, con biết làm toán nhân không con? Luôn luôn tha, con không còn cách khác.

Sự tha thứ nầy không phải cố gắng tha, không phải tha ở bên ngoài, không phải giả bộ tha làm dáng đạo đức, không phải tha để cho người ta khen đâu con ơi! Mà phải tha thứ tự trong lòng, nơi ấy có Chúa ngự và Ngài thấu hiểu lòng con! Con tha hay không, không có lừa Ngài được, vì Ngài ngồi cả ngày đêm ở đó, không bao giờ ngũ đâu mà tưởng ngài không biết! Như thế sự tha thứ trọn vẹn chỉ con với Chúa biết mà thôi, con chỉ nên biết Tâm mình là được rồi.

Sự tha thứ nầy không phải một ngày mà con tha thứ được, không phải cảnh này con tha được rồi mọi cảnh khác đều được, gọi vạn duyên đều thông đâu? Mà lúc hoàn cảnh nầy tha được, nhưng đến hoàn cảnh khác đành chịu! Nên phải đi trong đời, ứng hiện vạn cảnh lòng vẫn an bình thì mới tạm gọi nơi con không có lòng thù hận. 

Nhiều lúc với cảnh nầy lòng an nhiên, nhưng đến cảnh khác lòng như sóng gào, đêm nằm trong cảnh thanh tịnh của đêm trường mà trong tâm can như lữa cháy. Bởi vì sự thù hận chính là lữa, là sự cuồng, là hoả vô hình nung đốt tâm can, là lữa hoả ngục đó con để ý là thấy, thật hoả ngục ở tại tâm con rồi.
Như thế làm cách nào để tha thứ cho kẻ thù?

Trước hết kẻ thù chính là do tâm con hiện tưởng, nghĩ tưởng mà thành, thật ra có người gây cho con đau khổ, nhưng kẻ thù hiện trong con là do lòng con nghĩ tưởng mà thành. 

Nghĩ lâu ngày thành định tưởng là tư tưởng càng lúc càng kết chặt. 

Từ đây ngày đêm nung nấu để trả thù, dẫn đến hành động tổn thương kẻ thù của con, là con đã tạo định nghiệp, có nghĩa là từ hư vọng tạo thành tướng hiện dẫn đến nghiệp quả. Đã gieo gió rồi sẽ bão. Oan oan tương báo chừng nào mới hết sự thù hận. 

Nếu con nghĩ, nó là kẻ làm hại con, thì sự nghĩ ấy biến thành thực.
Nếu con nghĩ, sự việc ấy là Trời khiến nó làm cho con, để giúp con chịu, trả lại điều con làm từ trước. Nghĩ như thế nó là người làm ơn cho con. Mà thật, mọi sự trong đời hiện ra đều do từ Trời, do quy luật biến hiện đồng ứng, nên có trách thì con phải trách Trời mới đúng , vì sao con lại trách người?

Nếu nó do không biết mà làm hại con, thì con theo lòng từ bi, con phải thương nó nhiều hơn. Hành vi hại người, làm cho chính nó khốn khổ chứ không phải con? Hiểu như vậy con phải thương nó nhiều hơn mới đúng lời Thiên Chúa đã dạy cho con. Đức Phật ngài cũng dạy như thế! Con theo ai mà làm khác được?

Sự ác hiện ra trong đời con, nếu con nghĩ đây là cơ hội đền bớt những điều xấu ác, mà chính mình đã vô tình hay hữu ý làm hại con người. Thì điều kẻ khác hại con lại chính là điều lợi. Con không dám cầu nó đến, nhưng khi nó đã đến con hóa giải bằng cách nhận và thương. Phương cách nầy đã làm con ở trong Nước Trời lập tức, lợi quá phải không? Con chọn cách nào?

Để tha thứ cho kẻ thù con phải trở vào tâm của mình, con phải trở lại với lòng con, hay con phải gặp Thiên Chúa thật ngự nơi lòng con, chứ con đừng chạy ra ngoài, đừng dùng trí óc suy tưởng, đừng dùng kinh nghiệm để giải quyết nó. Vì lỗ quá, phi lý quá con không giải nỗi nó đâu?

Như thế giải quyết sự tha thứ bằng cách trở lại với lòng mình và gặp Thiên Chúa đích thực. Người ta thường nói “chư thiên độ trì” hay “đồng thanh tương ứng” hay “không có Ta các con chẳng làm gì được”… việc nầy rất khó mà khi đã có Thiên Chúa trợ giúp và với lòng con thực muốn tha thứ thì mới làm được, một mình Thiên Chúa cũng đành chịu, một mình con cũng chào thua! Con có thấy như vậy không? 

Trở lại với lòng mình chính là tâm thức cầu nguyện, càng trở lại nhiều con càng có sức mạnh, càng mạnh con mới làm được sự tha thứ chân thành. Đi đường ấy lợi hơn đi kiểu tính toán trần gian.
Khi hạnh phúc òa đến, con sẽ hiểu rằng sự tha thứ đã hiện thực, khi chưa có hạnh phúc, con hãy cầu nguyện nhiều hơn. 

Dương Phú Cường

Sức mạnh của tâm thanh tịnh (Minh Hạnh chuyển biên)


Hôm nay chúng ta học một câu chuyện bổn sanh, qua câu chuyện đó chúng ta có được một bài học nói về sức mạnh của tâm thanh tịnh và sự suy sụp của tâm bất tịnh. Câu chuyện hiện tại và câu chuyện quá khứ Đức Phật Ngài kể lại cho thanh niên Balamon nghe giống nhau, khi một người dầu trước đó có thông minh và nhớ nhiều thuộc lòng các chân ngôn và đọc lại những chơn ngôn đó thông suốt, nhưng về sau tâm của người này bị vẩn đục bởi phiền não chi phối thời khả năng trí nhớ và trí tuệ người ấy không có được như xưa. Xuyên qua câu chuyện này chúng ta phải làm gì để khắc phục được khi trí nhớ bị mất và trí tuệ bị lu mờ. Chúng tôi sẽ chia sẻ với qúi vị qua những nội dung đó.

Trước hết chúng ta hãy phân tích thế nào là trạng thái tâm thanh tịnh và thế nào là trạng thái tâm uế nhiễm.

Trạng thái tâm thanh tịnh ở đây là nói đến trạng thái tâm tịnh hảo thuộc về thiện pháp. Tâm tịnh hảo có ba là tâm thiện, tâm quả, và tâm tố tức là có vi tác. Nhưng đối với những tâm hoạt động như tâm học hỏi thuộc lòng và suy nghĩ về pháp, đối với kẻ phàm phu chúng ta tâm hoạt động như thế là tâm thiện, tâm tịnh hảo thuộc về thiện pháp. Tâm quả thuộc về đổng lực thì chỉ có tâm quả siêu thế thì phàm phu chúng ta chưa đạt được. Tâm tịnh hảo thuộc về đổng lực tố thì tâm đó là tâm của vị A La Hán, chúng ta cũng chưa có được. Chúng ta chỉ có mỗi một thứ tâm tịnh hảo thuộc về đổng lực đó là tâm thiện. Tâm thiện này vì nó có những thuộc tính phối hợp, thuộc tính tương ưng tức là vô tham-alobha, vô sân-adoha, vô si-amoha. Lại thêm nữa là có những thuộc tính thuộc tịnh hảo chẳng hạn như có tín, có niệm, có tàm, có qúi, có tâm thuộc tính trung hoà hay là sở hữu tâm hành xả, có tịnh thân, tịnh tâm, khinh thân, khinh tâm, nhu thân, nhu tâm, thích thân, thích tâm, thuần thân, thuần tâm, chánh thân, chánh tâm, vì có những đặc tính như vậy cho nên tâm tịnh hảo trở nên thanh tịnh tốt đẹp. Với trạng thái tâm thanh tịnh tốt đẹp này mới phát triển được trí tuệ và duy trì được trí nhớ. Cũng giống như một cái chai sạch chúng ta có thể đựng nước sạch lâu ngày, và cái chai bị bẩn nếu chúng ta dùng cho dù để đựng nước sạch thì một hai ngày sau nó sẽ làm nước trở nên bẩn như thế nào. Thì ở đây chúng ta nên hiểu chai sạch chỉ cho trạng thái tâm thanh tịnh và chứa nước là chỉ cho những điều chúng ta học hỏi những kiến thức chúng ta đã có do nơi trí tuệ và trí nhớ đã thành tựu được. Thì trí tuệ và trí nhớ đó nếu như được duy trì bởi tâm tịnh hảo với một nếp sống thanh tịnh lành mạnh trong sáng thì trí tuệ và trí nhớ đó phát triển và duy trì được lâu dài. Đó là ý nghĩa tâm thanh tịnh.

Thế nào là tâm uế nhiễm? Tâm uế nhiễm ở đây là chỉ cho trạng thái tâm bất thiện akusalacitta và tâm bất thiện này có ba loại: tâm bất thiện bị tham chi phối, tâm bất thiện bị sân chi phối, tâm bất thiện không có tham không có sân nhưng bị hoài nghi và phóng dật chi phối đó gọi là tâm si. Thì tâm làm cho suy sụp trí nhớ và trí tuệ tâm bất tịnh đó là tâm cấu uế chính do tâm bị tham chi phối, bị sân chi phối, bị hoài nghi bị phóng dật chi phối. Khi một người sống nhiều với tâm bất thiện thì những gì mà trước đây họ học hỏi được do trí nhớ và trí tuệ thành tựu thì bây giờ chính do tâm bất thiện này làm cho suy giảm, đó là ý nghĩa về tâm ô nhiễm.

Như vậy thì ở đây chúng ta thấy những điều tốt đẹp nào chúng ta đã có được nếu những điều tốt đẹp đó được duy trì bởi trạng thái tâm thiện tâm tịnh hảo thì những điều tốt đẹp đó sẽ còn tốt đẹp mãi, còn nếu những điều tốt đẹp nào bị tâm bất thiện tham sân si chi phối thì điều tốt đẹp đó sẽ mất đi. Bài học của chúng ta hôm nay là sự nguy hại của tâm cấu uế và sự lợi ích của tâm thanh tịnh. Qua câu chuyện này thì chúng ta đã thấy rõ chàng thanh niên trong quá khứ là tiền thân của chàng thanh niên hiện tại, chàng thanh niên này trước đây khi tâm chưa bị quấy nhiễm bởi tham, bởi sân, bởi si, bởi hoài nghi, bởi phóng dật, thời anh ta học chân ngôn rất dễ mau thuộc mau nhớ và nhớ lâu khi đọc lại chân ngôn đó anh ta đọc rõ từng câu một thứ lớp trật tự, đó là do lúc bấy giờ tâm của anh ta chưa bị quấy nhiễu, nhưng cho đến khi anh ta lập ra đình rồi thì những sự tham chấp ái luyến đối với vợ, thương yêu con cái, rồi dính mắc tài sản lại bận rộn nhiều gia sự, có khi sân giận bất bình, có khi thì bị hôn trầm thụy miên dã dượt, có khi thì bị phóng dật suy nghĩ miên man, thì lúc bấy giờ anh ta không còn khả năng để nhớ được những chơn ngôn mà trước đây anh đã học thuộc. Sự kiện đó rất dễ dàng để cho chúng ta hiểu một điều là nếu chúng ta muốn duy trì pháp tốt đẹp thì chúng ta phải giữ tâm an tịnh, chỉ có tâm an tịnh thì mới giúp cho trí nhớ và trí tuệ của chúng ta đã được phát triển được duy trì.

Chúng ta biết rằng khi nước trong thì mới thấy được những sinh vật sống dưới đáy nước thậm chí là hòn sỏi hay cát ở dưới nước cũng thấy được. Nhưng khi nước bị vẩn đục cá lội, hay cua sò ốc hến ở dưới đáy hồ cũng không thấy được, hoặc những hạt sỏi những viên đá nằm dưới đáy hồi cũng không thấy được. Ở trong cuộc sống có những điều nguy hiểm mà chúng ta không để ý khi tâm bị tham chi phối nhiều, chúng ta bị sân chi phối hay bị phóng dật hôn trầm thì chúng ta nghĩ đó là chuyện thường, tâm phàm phu là như vậy thôi, nhưng nếu chúng ta tiếp tục để tâm bị cấu uế bởi những triền cái như vậy thời chúng ta sẽ đánh mất đi trí tuệ và trí nhớ của chúng ta. Chúng ta không nên xem thường.

Nói đến điều này chúng ta có rất nhiều điểm để bàn đến, trước nhất chúng ta nói về bốn sự kiện mà Tôn Giả Xá Lợi Phật đã thuyết giảng cho chư tỳ kheo Ngài đưa lên bốn thí dụ:
1) Có người đi chợ mua bát đồng sạch sẽ bóng loáng rực rỡ vàng ánh khi đem về người đó không dùng tới bỏ vào xó nhà lâu ngày bụi đóng và bị hen rỉ lên ten và cái bát đồng ngày xưa bóng loáng nay bị dơ bẩn cấu uế. Trạng thái tâm từ chỗ trong sạch, có người từ trạng thái tâm trong sạch đi đến cấu uế là như vậy, tức là người này trước đây tâm hiền thiện tốt đẹp nhưng rồi sau này để phiền não chi phối thì trạng thái tâm trở nên dơ bẩn cũng giống như cái bát đồng dơ vậy.
2) Thí dụ thứ hai là có người mua cái bát đồng ngoài chợ về rất cũ kỹ bụi bám đầy. Nhưng khi đem về người ấy siêng lau chùi đánh bóng và chăm sóc mỗi ngày thì dần dần bát đó trở nên bóng loáng sạch sẽ. Cũng như một người trước đây mặc dầu tâm cấu nhiễm nhưng sau đó nhờ khéo tu tập thiện pháp cho nên người này trở thành thanh tịnh. Hạng người này được ví dụ như bát đồng thứ hai.
3) Thí dụ thứ ba Ngài Xá Lợi Phất đã thuyết rằng có người mua bát đồng từ ngoài chợ đem về, cái bát đồng đó sạch sẽ sáng loáng, khi người đó trở về nhà người này siêng năng mỗi ngày lau chùi, cái bát đã sạch lại sạch thêm, đã bóng lóang lại bóng loáng thêm. Cũng thí dụ như hạng người trước đây tâm thanh tịnh tốt đẹp thiện pháp rồi lại còn cố gắng duy trì thiện pháp đó và một mực tu tập không thối chuyển cho nên họ từ thanh tịnh này đi đến thanh tịnh khác.
4) Thí dụ thứ tư ví như hạng người giống như cái bát đồng mà một người mua từ chợ đem về dơ bẩn hen rỉ cấu uế và đem về người chủ bỏ vào một xó không dùng, không chăm sóc lau chùi, thế là cái bát đồng này đi từ cấu uế đến cấu uế, nó đã dơ bẩn bây giờ nó càng dơ bẩn hơn, nó đã tối bây giờ càng tối hơn. Cũng như hạng người mà trước đây tâm của họ có quá nhiều phiền não cấu uế vì không khéo tu tập, trái lại họ càng dung chứa phiền não làm cho tâm đi từ cấu uế này đến cấu uế khác.
Đó là bốn hạng người được Tôn Giả Xá Lợi Phất thuyết như là bốn cái bát đồng.

Làm như thế nào để chúng ta có thể duy trì được một trạng thái tâm đã thanh tịnh càng thanh tịnh và một trạng thái tâm đã bị cấu uế trở lên thanh tịnh để đem lợi ích cho mình và cho người khác? Có những pháp môn tu tập sẽ giúp cho chúng ta gột rửa được những trạng thái tâm. Những sự tu tập đó là gì? Chúng ta có ba việc tu tập:

Pháp tu tập thứ nhất là: Giới, tính chất của giới giống như hàng rào để ngăn chận sự xâm nhập của kẻ trộm như thế nào thì giới sẽ ngăn chặn sự xâm nhập của phiền não tạo nên những điều quấy ác. Như vậy việc tu tập trước tiên là chúng ta phải giữ giới, chúng ta phải sống phản tỉnh phải xét lại thường xuyên về giới trong ngày mà chúng ta có thân hành, có khẩu hành, có ý hành. Những thân hành nào thuộc về thiện pháp có lợi ích được bậc thiện trí tán thán thì chúng ta duy trì hành động đó, còn thân hành nào bị bậc trí chỉ trích thì nó thuộc bất thiện pháp hại mình hại người, đưa đến khổ đau, chúng ta ngưng ngay hành động đó bằng giới. Lời nói (khẩu hành) cũng vậy nếu chúng ta thường xuyên cảnh tỉnh suy xét về lời nói của mình đã nói đang nói và sẽ nói xem coi lời nói đó có lợi hay bất lợi, đưa đến hạnh phúc hay đau khổ được người trí tán thán hay chỉ trích. Có suy xét như vậy chúng ta mới áp dụng lời nói, lời nói nào có lợi mình lợi người, lời nói nào đưa đến sự an lạc, lời nói nào mà được bậc thiện trí thức tán thán thì chúng ta nên nói lời nói đó, còn lời nói nào quấy bất thiện thì chúng ta nên từ bỏ. Chúng ta giữ giới tức là phải phản tỉnh tam nghiệp như vậy, phải phản tỉnh thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp như vậy. Sự giữ giới đó mới giúp cho chúng ta gột rửa được những ác bất thiện pháp đã sanh và làm cho những thiện pháp đã sanh được duy trì. Đó là cách tu tập thứ nhất để giúp cho chúng ta tâm ý thanh tịnh.

Pháp tu tập thứ hai là: Định. Tu tập về định có ba trường hợp:
1)Tu tập về định thuộc chánh tinh tấn là luôn luôn phải biết khích lệ sách tấn nội tâm đừng để sự biếng nhác sanh khởi, sự biếng nhác ở đây là hôn trầm thụy miên tức là sự buồn ngủ dã dượi, khi trạng thái tâm buồn ngủ dã dượi đó thuộc về hôn trầm triền cái thì cũng giống như là nước đóng rong, nước ao tù lâu ngày sẽ đóng rong làm cho nước trở bẩn đục, đó là trạng thái tâm thụ động biếng nhác, mà tâm thụ động biếng nhác là điều nguy hại cho trí tuệ và trí nhớ phát triển. Hãy xem như là một sự cấu uế chúng ta phải cần đến chánh tinh tấn trong phần định học, hãy tu tập cái đó. Trong cuộc sống của chúng ta có đôi khi chúng ta nghĩ rằng mình siêng làm việc thì như vậy được gọi là tinh tấn, không phải như vậy, sự tinh tấn để làm cho tâm thanh tịnh đó tức là chúng ta phải làm sao có sự tinh tấn nỗ lực ở tâm, trạng thái tâm không bao giờ thụ động tiêu cực, không bao giờ chùng lại giống như lông chim gặp lửa thì bị quéo lại, chúng ta đừng nghĩ rằng trạng thái uể oải biếng nhác đó chỉ là một hiện tượng tâm sinh lý bình thường của một người khi làm việc quá nhiều rồi cơ thể sinh học có dấu hiệu đó để báo cho biết để nghỉ ngơi. Chúng ta cứ nghĩ như vậy thì xem chừng lâu ngày tâm của chúng ta sẽ muội lượt, trí nhớ và trí tuệ chúng ta sẽ bị cục bộ. Cho nên tu tập về định chi phần thuộc chánh tinh tấn rất quan trọng.

2)Tu tập về định chi phần thứ hai là tu tập chánh niệm-sammasati. Nếu mỗi ngày chúng ta đều trao dồi trí tuệ, trao dồi chánh niệm cho bén nhạy, nghĩa là khi đi, đứng, nằm, ngồi, đều có sự tỉnh táo nhận biết ý thức được hành động đang làm, trạng thái tâm hay là cảm thọ đang sanh khởi như thế nào ghi nhận như thế đó, thậm chí là hơi thở ra, hơi thở vào chúng ta cũng biết rõ đây là hơi thở đang thở ra, đây là hơi thở đang thở vào, chúng ta có chánh niệm như vậy. Chánh niệm được tu tập lâu ngày sẽ giúp cho trí nhớ của chúng ta bén nhạy. Những bậc thánh nhân những bậc đại nhân khi chánh niệm thuần thục bén nhạy vị đó có thể đạt đến một trí nhớ siêu nhân. Trí nhớ không phải nhớ những gì đã xảy ra trước đây trong kiếp sống này mà nhớ luôn cả những kiếp sống trong quá khứ như là túc mạng minh v.v... cái trí nhớ rất quan trọng, chúng ta duy trì trí nhớ bằng cách có chánh niệm. Bây giờ chúng ta tu tập chánh niệm là vừa, đừng để tâm bị phóng dật lâu ngày, mơ mộng suy nghĩ miên man. Chúng ta không kéo tâm trở về chánh niệm thì có thể là giờ về già sẽ bị lẫn, quên trước quên sau. Thường thường trong cuộc sống đôi khi chúng ta lại biện hộ binh vực và ca tụng về trạng thái chúng ta mất trí nhớ lãng trí. Thí dụ như trong tay cầm cái chìa khóa cửa mà chúng ta không hề nhớ biết cứ loay hoay đi tìm cái chìa khóa, rồi có người chỉ lúc bấy giờ mình mới nhận ra là cái chìa khóa đang cầm trong tay, rồi cười xòa bỏ qua. Chúng ta cười như vậy có đôi lúc cảm thấy hãnh diện vì bận công việc nhiều quá cho nên quên trước quên sau, chúng ta hãnh diện về điều đó, nhưng mà chính cái hãnh diện đó là chúng ta dung túng cho trạng thái tâm cấu uế mất chánh niệm. Mất chánh niệm thì trí tuệ và trí nhớ của chúng ta sẽ giảm. Có những vị xuất gia thoạt đầu khi còn trẻ thì tâm của vị đó còn chánh nhiệm, còn có sự chú ý nhiều, nghĩa là không màn đến Phật tử đến cúng dường trai tăng lợi lộc phát sanh hay là không nghĩ đến chức sắc ở trong giáo hội v.v... thì lúc đó học kinh kệ rất nhiều rất sâu sắc, thuộc rất nhiều kinh điển nhưng rồi một thời gian sau lo làm công việc này công việc khác, bận rộn với việc trụ trì hay việc đi lễ hội chỗ này chỗ kia v.v... sắp xếp công việc bỏ quên cái hiện tại rồi lâu ngày bắt đầu quên chi pháp, có những câu chuyện những câu Phật ngôn mà mình đọc được trong Tăng Chi Bộ hay là Tương Ưng bộ kinh Trường bộ kinh v.v... hồi lúc còn nhỏ thì chúng ta nhớ kỹ lắm, nhưng đến khi chúng ta lớn tuổi rồi chúng ta quên mất. Cái quên đó chúng ta thường hay đổ thừa là tại vì cái thân già rồi cho nên bộ óc không được minh mẫn không được sáng suốt nhạy bén như hồi còn trẻ. Chúng ta đổ thừa cho cái thân bị già nhưng thực ra chính do vì chúng ta bỏ quên chánh niệm không chịu thường xuyên trao dồi chánh niệm cho nên chúng ta bị như vậy, chứ nếu là các vị A la hán hoặc như Đức Phật ở trong kinh điển giải thích rằng dầu cho Ngài đã lớn tuổi nhưng mà đối với các vị như Đức Phật lúc ấy tinh thần Ngài vẫn minh mẫn đặc biệt Ngài còn minh mẫn đến độ mà Ngài thuyết pháp độ cho vị đệ tử cuối cùng là du sĩ Subhadda chứng Alahan quả và những gì mà Đức Thế Tôn Ngài đã truyền giảng trong ngày giờ cuối cùng những giây phút tối hậu đó cho đến ngày hôm nay chúng ta đọc qua chúng ta thấy vẫn mang một giá trị giải thoát như khi Đức Thế Tôn ở lúc tuổi đương thời. Ngài giác ngộ năm 35 tuổi và trong thời gian đó Ngài thuyết pháp cao siêu và hướng thượng như thế nào, khéo thuyết như thế nào thì khi tuổi về già 80 tuổi rồi pháp đó vẫn là pháp đó chứ không sai suyển không quên được, không có thể quên trước quên sau nói rồi mà quên đi lập lại lập lại như chúng ta. Người già của chúng ta thường thường kẻ phàm phu chúng ta hay bị tình trạng nhiều khi có câu chuyện chúng ta mới nói ngày hôm qua với người ấy bữa nay gặp lại chúng ta nói nữa chúng ta kể nữa, chúng tôi gặp những người như vậy chúng tôi cũng sợ lắm. Và chúng ta nghĩ rằng khi chúng ta về già chắc chắn là phải bị như vậy rồi nếu mà chúng ta bỏ quên chánh niệm. Cho nên người xưa có một danh nhân nói: "Tôi không sợ già mà tôi sợ cái tật của người già." Chúng ta đừng có sợ, chỉ sợ cái mà chúng ta bỏ quên chánh niệm thôi, chúng ta hãy tu tập như thế.

3) Chánh định cũng là chi phần của định. Là chúng ta cố gắng làm sao tập trung tư tưởng, mỗi ngày chúng ta phải dành ra 5 phút để tập trung tư tưởng, 5 phút, 10 phút cũng được. Sự tập trung tư tưởng đó theo cách thiền chỉ cũng được và thiền quán cũng được. Nghĩa là chúng ta phải có sự định tâm, nhờ sự định tâm đó chúng ta sẽ làm việc sáng suốt minh mẫn. Nếu để cho tâm tán loạn lao chao phóng dật như vậy tâm không có được thanh tịnh. Cũng giống như ngọn đèn nếu đứng yên thì ngọn đèn đó sẽ toả ra ánh sáng, còn khi ngọn đèn trước gió nó cứ chập chờn chập chờn, như ngọn nến chẳng hạn để trước gió nó cứ chập chờn ngả bên đây ngả bên kia làm cho ánh sáng không được tỏ rõ. Thì định tâm cũng giống như ngọn đèn được giữ yên ánh sáng tỏa rõ ràng. Còn khi ánh sáng chập chờn ngọn đèn mà leo lét chập chờn thì cũng giống như trạng thái tâm phóng dật.

Cho nên ở đây cách chúng ta tu tập về định để trí tuệ và trí nhớ của chúng ta duy trì và phát triển tốt là chúng ta phải có chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Tu tập về tuệ. Trí tuệ không phát sanh đến những người không suy luận chúng ta phải thường xuyên trao dồi. Trí tuệ chúng ta không phải là một đặc ân của trời cho mà cũng không phải là bẩm sinh người có trí tuệ rồi trí tuệ đó giữ vững mãi, không phải là như thế, trừ ra đối với một bậc giác ngộ bậc đã chứng đạo quả thì trí tuệ của vị đó là bất động trí, còn trí tuệ của phàm phu chúng ta thì luôn luôn bị giao động cho nên chúng ta phải tu tập về trí. Chúng ta tu tập về trí là tu tập về giới, định và tuệ.

Tu tập về tuệ ở đây chúng ta tu tập theo hai chi phần:

1 - Chi phần thứ nhất của tuệ - là chúng ta phải có chánh kiến. Chánh kiến là chúng ta phải suy xét đúng chỗ nào mà chúng ta có sự hoài nghi thì chúng ta nên hỏi lại, những cái gì chúng ta hiểu còn cạn thì cố gắng suy luận để hiểu cho sâu và hiểu theo hướng chân chánh, đúng pháp, đúng lý nhân quả. Và kinh điển Đức Thế Tôn đã thuyết giảng là kim chỉ nam cho chúng ta để chúng ta suy luận một cách chính xác. Thường thường thì chúng ta có một quan niệm rất sai lệch là chúng ta nghĩ rằng người tu tập theo pháp môn này theo hệ phái kia, hay là người có chánh kiến nếu đi theo hệ phái môn phái tông phái khác thì là người tà kiến. Điều đó không phải. Tà kiến và chánh kiến không phải dựa vào hình thức đó. Dầu cho người này đang ở trong phòng có tủ kinh điển Tam Tạng nhưng người này không chịu đọc và không chịu suy luận thì người này vẫn có tà kiến như thường. Chứ không phải là nói rằng ở trong thư viện của chùa chúng tôi có đầy đủ Tam Tạng và chú giải thì chúng tôi sẽ là người có chánh kiến. Không phải như vậy. Do chúng ta suy luận hoặc là do chúng ta nghe người khác giảng giải.

Nguyên nhân phát sanh lên chánh kiến có ba:

a) Một chúng ta nghe pháp từ nơi người khác, nghe người khác giảng giải phân tích, chúng ta hiểu rồi phát sanh ra chánh kiến.
b) Thứ hai khéo tác ý mà phát sanh ra chánh kiến tức là khéo suy luận và khi chúng ta có được cái nhìn chân chánh thì lúc bấy giờ nó sẽ giúp chúng ta duy trì được trí nhớ và trí tuệ. Ở đây có một loại chánh kiến chúng tôi xin mách nước cho qúi vị. Qúi vị làm sao nhớ cho một điều là hễ ở trong cuộc sống cái gì xảy ra chúng ta đều suy xét bằng cách là pháp hữu vi là vô thường, có sanh thì có diệt, cái gì có sanh khởi thì cái đó phải bị hoại diệt. Chúng ta suy xét về tánh chất vô thường thì đó cũng là một yếu tố phát sanh lên chánh kiến. Rồi chúng ta suy xét về sự khổ ở trong cuộc đời, cái gì vô thường biến hoại thì cái đó mang tánh chất khổ, thương phải xa ghét phải gần hay là già bị bệnh, bị chết, bị người khác đánh đập v.v... thì cái nào cũng phải khổ cả. Khi chúng ta đang dự tiệc vui, trong tiệc vui đó chúng ta phải biết có cái mầm đau khổ là bởi vì cuộc vui nào cũng tàn, cuộc họp nào rồi cũng tan. Chúng ta cứ tập suy xét. Hoàn cảnh nào chúng ta cũng thấy có cái khổ ở trong đó, tế nhị nhất là cái khổ trong pháp vô thường chúng ta cũng phải thấy như vậy thì phát sanh lên chánh kiến.
c) Điều thứ ba là muốn phát sanh chánh kiến thì chúng ta phải thường xuyên tu tập quán thấy sự vô ngã. Quán thấy vô ngã là chúng ta nên biết rằng không có pháp hữu vi nào mà không có duyên trợ tạo tác. Hễ là pháp hữu vi thì đó là pháp hữu duyên. Mà hễ là pháp hữu duyên thì nó theo cái định lý, do cái này có mặt cái kia mới có mặt, do cái kia có mặt thì cái nọ mới có mặt, hễ cái này diệt thì cái kia diệt, cái kia diệt thì cái nọ diệt, duyên hệ và duyên sinh như thế. Như vậy tất cả đều là rỗng không. Pháp hữu vi cũng giống như một đống cát thấy một đống cát vụn, với thân ngũ uẩn này chúng ta tập suy xét về vô thường, khổ não, và vô ngã thường xuyên như thế thì chúng ta sẽ phát sanh chánh kiến.

2 - Chi phần thứ hai của tuệ - là chúng ta tu tập chánh tư duy, hễ mỗi lần suy nghĩ cái gì thì phải là suy nghĩ với tư tưởng ly dục không đắm nhiễm, mỗi lần suy nghĩ là suy nghĩ bằng tâm mát mẻ bằng trạng thái không sân hận, rồi chúng ta phải suy nghĩ với tư tưởng bất hại, không nên tối ngày từ sáng đến chiều lo suy nghĩ thù hận người này ghét người kia, tìm mưu này kế nọ làm cho chúng sanh khác đau khổ để trả thù để cho hả giận v.v... Tư duy của chúng ta hàng ngày là phải ly dục tư duy, vô sân tư duy, và bất hại tư duy, chúng ta tu tập như thế thì thử hỏi làm sao tâm chúng ta lâu ngày không được thanh tịnh, với một người mà tư duy vô tham, tư duy ly dục, tư duy vô sân, và tư duy bất hại thì trí tuệ càng lúc càng sáng lên bởi vì đó là mảnh đất phong phú màu mở là một giòng nước trong suốt có thể thấy được tới đáy hồ hay đáy suối đáy sông.

Ở đây chúng ta cần phải hiểu giá trị của tâm thanh tịnh đem đến nhiều lợi lạc cho mình và cho người khác: trước nhất là để duy trì trí nhớ, hai là để làm sao duy trì trí nhớ và trí tuệ tốt để chúng ta có trí tuệ sáng suốt minh mẫn, từ lúc còn trẻ cho đến khi trung niên cho đến khi lão niên lúc nào trí tuệ trí nhớ của chúng ta cũng sáng suốt minh mẫn tỉnh táo thì đó là một điều tốt. Còn nếu chúng ta không tu tập theo giới, theo định, theo tuệ, bằng cách này thì như vậy là đã khuấy đục nội tâm này làm cho trí nhớ trước đây bị giảm thiểu xuống và mất đi, thì nó sẽ đưa đến hại mình hại người . Cho nên trong bài học này là một câu chuyện Đức Phật Ngài đã chỉ nhắc kinh Bổn Sanh thôi để cho chàng thanh niên đó nghe xong thì rất hoan hỉ và chứng Tu Đà Hườn ngộ được pháp. Chúng ta bây giờ nghe câu chuyện này nên học và nên biết ở trong đời sống tu tập có những kho tàng qúi giá mà chúng ta không biết khai thác, chúng ta cứ treo tấm biển để đó thôi rồi ai muốn khai quật ai muốn tìm hiểu thì cũng được, chúng ta không tự mình để tìm tòi cái kho tàng đó, cái kho tàng đó tức là cái pháp thực hành để duy trì chánh niệm được trí nhớ và trí tuệ, chúng ta phải tự mình làm công việc đó chứ không thể ỷ lại vào ai được, chúng ta cầu Đức Phật, Đức Phật cũng không có ban cho chúng ta một trạng thái tâm sáng suốt tỉnh táo được, mà Đức Phật Ngài dạy chúng ta phương pháp thực hành để tâm tỉnh táo sáng suốt, chúng ta phải thực hành theo đó.

Hôm nay trong bài học này với câu chuyện Bổn Sanh Anabhirati, chúng tôi xin được trình bày với ý nghĩa bấy nhiêu mong rằng thời pháp đem lại cho chúng ta nhiều lợi lạc và nếu như chúng ta hiểu được hoan hỉ những gì trong thời pháp thì cố gắng cùng nhau tu tập theo đó đừng để cho trí nhớ và trí tuệ bị giảm, khi mệnh chung chết với trạng thái tâm tán loạn thất niệm thì rất nguy hiểm./.

-ooOoo-

Với phước báu mà con tạo nên hôm nay xin hồi hướng đến hương linh của mẹ là Thái Huê, cầu mong bà được thượng hưởng phước lành và chóng viên thành đạo quả.

Phật tử Thiện Pháp Nguyễn Văn Hòa và Minh Hạnh

Lời Khuyên Để Có Được Sự Thanh Tịnh Tâm Hồn



Hầu như tất cả mọi người đều muốn có được sự thanh tịnh tâm hồn trong đời sống của mình. Ai cũng muốn có được hạnh phúc để quên đi những khó khăn, vất vả và những lo âu của họ. Và tận hưởng những giây phút an lạc trong nội tâm và giải thoát khỏi những âu lo phiền muộn.

Thanh tịnh tâm hồn là gì? Nó là một trạng thái vắng lặng và thanh bình của nội tâm cùng với một cảm giác tự do. Một khi không còn những suy nghĩ và lo lắng thì không có phiền muộn, căng thẳng và sợ hãi. Những giây phút như thế này không phải là hiếm có. Chúng ta trải nghiệm qua những giây phút này chẳng hạn như khi chúng ta đang chăm chú vào một vài công việc hấp dẫn hay hoạt động mà chúng ta yêu thích như là khi chúng ta xem một tập phim hay hoặc một chương trình ti vi hấp dẫn. Hoặc khi chúng ta ở bên cạnh một người mà chúng ta yêu thích hay khi đọc một quyển sách hay hoặc khi nằm phơi mình trên cát trắng dọc bờ biển.

Khi bạn đi du lịch bạn có trải qua một số trạng thái tinh thần lắng dịu không? Vào lúc này, tâm hồn của bạn trở nên yên tỉnh hơn vì bạn ít suy nghĩ và lo lắng. Thậm chí khi bạn ngủ say, bạn không ý thức được những suy nghĩ của mình, bạn đang ở trong tình trạng an bình của nội tâm.

Những việc như trên và những hoạt động tương tự như vậy cũng có thể giúp cho tâm của bạn vượt thoát những suy nghĩ và lo lắng. Và điều đó mang lại một vài giây phút ngắn ngủi cho sự an tịnh tâm hồn.

Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an lạc nội tâm nhiều hơn trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là làm thế nào để kinh nghiệm được điều đó mỗi khi gặp khó khăn. Bạn cũng có thể đặt câu hỏi là liệu mình có thể làm cho nó trở thành một thói quen và luôn luôn tận hưởng nó ở bất cứ trường hợp nào. Trước tiên, bạn cần phải học cách để có được nhiều giây phút an lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày. Sau đó, bạn mới có thể nhận diện được những giây phút này mỗi khi gặp khó khăn rắc rối – đây là lúc cần thiết nhất cho sự vắng lặng và thanh bình của nội tâm.

Bạn có thể chuyển hóa trạng thái an lạc trong nội tâm thành một thói quen tự nhiên, nhưng để làm được điều này cần phải có một sự huấn luyện đặt biệt bằng các bài tập về sự chú tâm như thiền định và các phương pháp khác. Bạn có thể vào trang web http://www.successconsciousness.com và bạn cũng có thể tìm thấy nhiều bài viết, lời khuyên và những kỹ thuật để huấn luyện cho sự an bình nội tâm cũng như quyển sách đặt biệt “Peace of Mind in Daily Life” đã đề cập về chủ đề này.

Sau đây là một vài kỹ thuật đơn giản có thể giúp bạn:

- Giảm lượng thời gian mà bạn đọc các tin tức trên báo chí và xem tin tức trên tivi.

- Tránh xa những cuộc nói chuyện có tính tiêu cực và những người yếm thế chán đời.

- Đừng nên giữ sự thù hằn. Học cách để bỏ qua và tha thứ. Nuôi dưỡng sự thù hận và bất bình sẽ hại chính bản thân bạn và gây nên sự mất ngủ.

- Không nên ghen tỵ với người khác. Ghen tỵ nghĩa là bạn hạ thấp lòng tự trọng và tự nhận mình thấp kém hơn mọi người. Điều này một lần nữa gây nên sự thiếu vắng an lạc nội tâm.

- Chấp nhận những cái gì mà chúng ta không thể thay đổi được. Điều này giúp cho chúng ta tiết kiệm được thời gian, năng lượng và những lo âu phiền muộn.

- Mỗi ngày chúng ta phải đối diện với biết bao những điều không vừa ý, những bực bội và những tình huống mà những điều này vượt quá tầm kiểm soát của chúng ta. Nếu chúng ta có thể thay đổi được những điều đó thì quá tốt nhưng không phải lúc nào cũng có thể làm được. Chúng ta phải học cách làm quen với những việc này và chấp nhận chúng một cách vui vẻ.

- Học cách để có thêm kiên nhẫn và khoan dung và độ lượng đối với mọi người và mọi tình huống.

- Đừng tham lam ôm đồm mọi thứ quá mức. Nên tập xả ly cả về tình cảm và tâm thần. Cố gắng nhìn cuộc đời mình và mọi người với một ít xả ly và một ít hệ lụy. Xả ly không phải là dững dưng, thiếu quan tâm và lạnh nhạt mà nó là một khả năng để tư duy và phán xét một cách công bằng và lô-gíc. Đừng nên lo lắng nếu bạn thất bại và tiếp tục thất bại trong việc thể hiện sự xả ly. Cứ cố gắng thực tập nó.

- Hãy để cho quá khứ đi qua. Hãy quên đi quá khứ và tập trung vào giây phút hiện tại. Không cần phải gợi lên những ký ức không vui và chôn vùi chính mình trong đó.

- Thực tập một vài cách để tập trung. Điều này sẽ giúp bạn tống khứ những ý nghĩ không vui và những lo lắng. Những thứ này đã cướp đi sự thanh thản trong tâm hồn bạn.

- Học cách để thiền tập. Thậm chí vài phút trong một ngày cũng có thể thay đổi cuộc đời bạn.

Cuối cùng, sự an bình trong nội tâm sẽ đưa đến sự an bình của thế giới bên ngoài. Bằng cách tạo ra sự an bình trong thế giới nội tâm, chúng ta mang nó ra thế giới bên ngoài và điều có có thể ảnh hưởng đến nhiều người khác chung quanh nữa!

Remez Sasson
Tâm Hải (The Buddhist Translation Group)

Làm thế nào để tâm chúng ta được yên?

Một đêm lo âu không ngủ, có thể làm cho đầu bạc nhanh, một cơn nổi nóng làm cho cả sắc mặt con người đổi khác, xấu đi trông thấy... và nếu sự giận dữ đó lắng xuống thành hận thù thì tác hại đối với cơ thể sẽ kéo dài và trầm trọng hơn. Trái lại, niềm vui trong sáng, tình thương rộng mở, niềm phấn khởi của sự sáng tạo v.v... những cảm xúc tích cực như vậy giúp cho nội tâm bình lặng, khiến các tuyến nội tiết bài tiết vào máu nhiều loại chất bổ, giúp cho con người hưng phấn và dường như trẻ lại...

Theo kinh nghiệm của bản thân tôi, kết hợp với kiến thức cơ bản về đạo Phật, chúng ta có thể thực hiện như sau:

1. Tuyệt đối, không bao giờ có tư tưởng hại người. Đó là tư tuởng mà Phật giáo gọi là bất hại hay ahimsa. Đã có tư tưởng hại người, thì sẽ có lời nói và hành vi hại người. Đã có hành vi hại người, thì ngưòi sẽ hại lại mình. Nội cái tâm sợ người ta hại mình thì cái tâm đó không yên rồi.

2. Không những loại bỏ tư tưởng hại người khỏi tâm thức chúng ta, mà cần loại bỏ tất cả mọi tư tưỏng tiêu cực khác, như ganh tỵ, dối trá, tham lam, giận ghét v.v... Tất cả những tư tuởng đó, được gọi là tiêu cực vì chúng làm rối loạn thân tâm chúng ta, đầu độc thân tâm chúng ta. Những người như thế làm sao có cái tâm yên được.

3. Thay vào những tư tưởng tiêu cực nói trên, chúng ta sẽ thường xuyên, liên tục bồi dưỡng, phát triển những tư tưởng tích cực trong đó, đứng hàng đầu là tình thương yêu, tôn trọng mọi người, mọi vật. Tình thương yêu đó, gọi chung là lòng từ và lòng bi, thường được định nghĩa là hai cái tâm muốn đem niềm vui đến cho mọi người (từ) và thông cảm với, chia sẻ nỗi thống khố của mọi người (bi). Ngoài ra, còn có cái tâm tùy hỷ, luôn luôn sẵn sàng chia sẻ niềm vui với mọi người. Người ta gặp chuyện vui, mình cũng nên vui theo. Tâm đã vui thì cũng được yên, do đó mà có từ ghép an lạc trong kinh điển nhà Phật.

Sống theo 10 thiện, tức là thể hiện trong cuộc sống hàng ngày ba tư tưởng tích cực trên là lòng từ, lòng bi, lòng tùy hỷ. Nội dung 10 thiện là gì, tôi tin rằng tất cả Phật tử chúng ta đều rõ. Do đó, ở đây, trong phạm vi một bài báo ngắn, tôi sẽ không đi sâu phân tích.

Chỉ cần nhắc lại ba điều thiện về thân: 1. Không giết mà coi trọng mạng sống là thiêng liêng. 2. Không trộm cắp mà thường bố thí, kể cả bố thí tài vật và bố thí pháp, tức là giảng giải Phật pháp, giảng giải những điều hay lẽ phải... 3. Không tà dâm mà sống trong sáng.

Bốn điều thiện về lời nói là: 1. Nói lời thật, không nói dối. 2. Nói lời đoàn kết, không nói lời chia rẽ. 3. Nói lời dịu hiền, không nói lời ác độc. 4. Nói lời có ích, không nói lời vô nghĩa.

Ba điều thiện về tâm, về ý nghĩ là: 1. Không tham. 2. Không giận dữ. 3. Không si mê.

Đạo Phật phân biệt rạch ròi về thiện và ác, không hề lầm lẫn. Làm điều thiện, nói và nghĩ điều thiện thì tâm được yên, làm điều ác, nói và nghĩ điều ác thì tâm sẽ không yên.

4. Trong kinh Pháp Cú, phẩm “Tâm” có hai bài kệ mà hàng Phật tử chúng ta nên học thuộc lòng:
“Kẻ thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà,
Gây ác cho tự thân” (PC.42)


“Điều mẹ cha, bà con
Không có thể làm được
Tâm hướng chánh làm được
Làm được còn tốt hơn” (PC.43)


(Kinh Pháp Cú – Bản dịch Thích Minh Châu)

Làm sao để Tâm thanh tịnh


Câu hỏi:
Nam mô Phật bổn sư thích ca mâu ni !
Kính bạch Thầy, xin Thầy chỉ dẫn cho con dẹp được Tâm thối trong mình. Làm sao để dẹp bỏ được những ích kỷ ghen tỵ trong mình, những cáu giận bực bội trong tâm mình. Nhiều lúc con biết là mình đã sai, con nhìn nhận được nhưng con không kiềm chế được nên đã làm cho người buồn, giận. Nhiều lúc con cảm thấy Tâm con không được vững vàng, trong tâm luôn có 2 dòng suy nghĩ: một thiện và một ác. Mặc dù con không muốn như vậy nhưng tâm ác nó cứ tự bung ra, con không biết phải làm sao cân bằng được. Kinh mong thầy từ bi chỉ dạy cho con, để tâm con được thanh tịnh.
Con xin cảm ơn Thầy,
Nam mô Phật bổn sư thích ca mâu ni.

Câu trả lời
Con thân mến,

Khi biết mình sai là con đã có sự tỉnh giác. Đây là căn bản của việc tu tập. Đã biết sai thì việc sửa sai tương đối dễ, tuy nhiên cần có sự thực tập thường xuyên.

Khi tâm sân hận, tâm ác khởi lên thì điều quan trọng là ta phải nhận biết được nó. Sau đó trở về với hơi thở, hít sâu, thở dài. Không nói gì, không làm gì cho đến khi ta cảm thấy tâm mình lắng dịu lại.

Muốn luôn được an ổn, muốn chế ngự và sau cùng là dẹp bỏ những tâm xấu ác ta phải thực tập hạnh Từ bi, Hỷ xả.


Khi yêu thương ai thì mình sẽ cố không làm cho người buồn giận, luôn mong muốn làm cho mọi người được an vui, hạnh phúc. Tình thương sẽ làm cho mình và mọi người gần gủi nhau hơn. Khi thương yêu thực sự thì tâm ích kỷ, ghen tỵ, nhỏ nhen sẽ không tồn tại.


Thực tập hạnh Hỷ xả sẽ luôn giử được sự vui vẻ, an ổn cho mình và cho người. Tâm Hỷ giúp ta luôn vui với niềm vui của người, hạnh phúc với hạnh phúc của người. Tâm Xả giúp ta luôn nhẹ nhàng thư thái, không cố chấp, không phiền não.

Tu tập hạnh Hỷ xả ta sẽ không còn cố chấp, không còn cảm thấy bực bội, phiền não, sẳn sàng vui vẻ bỏ qua mọi lỗi lầm của người. Khoan dung với người mà nghiêm khắc với chính mình, chỉ thấy lỗi mình không thấy lỗi người.

Nếu thường xuyên thực tập như thế con sẽ thấy cuộc sống của chúng ta có nhiều an lạc, hạnh phúc hơn.

Làm sao để cân bằng cuộc sống và suy nghĩ

Con năm nay 24 tuổi, đang sống và đi làm ở một công ty tại Hà Nội. Công việc, cuộc sống riêng tư của con đang trôi đi. Con cảm thấy nó trôi nhanh quá, nhanh tới mức con không thể kiểm soát được nữa. Tâm con, trí con dường như cũng bị cuốn theo nó. Con muốn dừng lại để thảnh thơi, để nhìn lại bản thân mình mà không thể đứng lại được. Con muốn được tĩnh tâm lại. Nhưng con không thể và không biết làm thế nào khi cuộc sống cứ từng ngày cuốn con đi theo nó. Tâm trí của con cũng dường như bị đảo lộn. Con xin Sư ông chỉ cho con cách làm thế nào để con có thể cân bằng lại được cuộc sống & suy nghĩ.

Thầy Pháp Thuyên xin chia sẻ

Em thân mến,

Trước hết xin được cảm ơn về câu hỏi thiết thực của em. Bởi vì dường như nhiều bạn trẻ sống ở các thành phố lớn hiện nay cũng đang có cùng tình trạng. Đó là điều đáng lo ngại cho thế hệ trẻ chúng ta khi mà kinh tế thị trường và công nghiệp phát triển. Nền khoa học kỹ thuật vượt bậc đã mang lại những tiện nghi lớn lao không thể phủ nhận cho chúng ta, nhưng đồng thời nó cũng làm bào mòn các giá trị văn hóa tinh thần khác. Có lẽ đó là lý do vì sao ngày càng có nhiều người Tây phương muốn nghiên cứu, học hỏi & thực tập các giá trị tâm linh nhiều hơn, cụ thể là đạo Bụt.

Em trai mến, tuổi trẻ Việt Nam chúng ta dường như chưa có sự chuẩn bị nhiều về mặt này. Đầu tư thời gian cho học tập, làm việc nhiều để đời sống vật chất gia đình được cải thiện, đất nước đi lên là rất quý nhưng nếu thiếu đi các giá trị tinh thần thì xu hướng xã hội sẽ đi về hướng bận rộn, tiêu thụ nhiều, con người trở nên lạc lõng và xa cách hơn trong chiều sâu tâm thức vì ít có thời gian ngồi lại chia sẻ, cảm thông với nhau…như vậy thì đời sống cộng đồng chắc sẽ trở nên cằn cỗi và vô vị lắm em nhỉ. Chia sẻ với em điều này bởi trong số những người xuất gia trẻ chúng tôi có người đã từng cảm thấy mình như một robot. Có ai đó đã cài đặt sẵn các chương trình hoạt động cho mình từ sáng cho đến tối mà không còn thời gian, năng lượng cho bản thân & những người xung quanh. Cái gì đã khiến mình như thế và có cách nào hay hơn không? Đó là một câu hỏi cho rất nhiều bạn trẻ ngày nay vốn dĩ thông minh & nhiều nhạy bén.

Trong gia tài của Bụt chúng ta may mắn có rất nhiều pháp môn thực hành. Tôi chia sẻ cho em một pháp thực tập gọi là CHỈ & QUÁN. Chỉ là dừng lại và Quán là nhìn sâu vào lòng sự vật. Xin được đưa ra một ví dụ nhỏ để em dễ hiểu hơn. Giả dụ khi em đến ngã tư đường thì đèn vàng vừa bật lên, báo hiệu chuẩn bị đèn đỏ dừng lại. Nhiều người trong số đông đã cố gắng nhấn ga nhanh hơn vượt qua để tránh phải chờ đợi. Ai cũng làm vậy và em cũng chạy cuốn theo mà không kịp nghĩ suy. Quả thật không ai muốn lãng phí bất cứ một thời gian trống vô nghĩa nào nên đã tranh thủ tất cả. Ấy vậy mà Sư ông Làng Mai dạy rằng chúng ta đang đánh mất từng phút giây quý báu của sự sống mà không hay. Mình chỉ lo chạy vội vã và lướt trên bề mặt của sự sống mà không tiếp xúc được với nó một cách sâu sắc, và rồi có một ngày nào đó mình cảm thấy mọi thứ trống rỗng. Đó là sự thật mà khi thực tập Chỉ & Quán em sẽ dần khám phá ra.

Nếu khi đèn vàng mà em thử thiền CHỈ, dừng lại rồi thở vào thở ra nhẹ nhàng cho lắng dịu bớt tâm tư đang suy nghĩ miên man và cảm nhận một chút cuộc sống đang xảy ra chung quanh. Sau đó mình thiền QUÁN thử là cái hành động ngừng lại không theo số đông này có lợi ích gì? Mình hiểu rằng đèn đỏ sẽ bật lên sau đèn vàng thời gian rất ngắn, vội vàng lúc này sẽ không an toàn “Thà chậm một giây còn hơn gây tai nạn”. Nếu không ai chịu nhường đường thì làm tắc nghẽn giao thông. Mọi người sẽ còn mất thì giờ nhiều hơn nữa. Với tình thương và ý thức trách nhiệm nên mình sẽ ngừng lại nhường đường, chờ đợi rất thoải mái mặc dầu sẽ có vô số người phía sau mình vượt lên. Mình không góp phần vào đám đông quá hối hả để làm gia tăng cái năng lượng ấy. Có cơ hội vài phút ngắn ngủi đó để dừng lại chăm sóc thân tâm mình, vừa tôn trọng luật giao thông và cảm nhận cuộc sống thì đâu có lãng phí đi đâu phải không em?

Dừng lại và quán chiếu trong bất cứ suy nghĩ, hoạt động nào của đời sống hằng ngày như công việc, mua sắm, học hành, quan hệ… thì dần dần em sẽ giảm được sự cuốn hút của thời gian, vòng xoáy đời sống bận rộn để trở về với chính mình nhiều hơn. Em nên dành khoảng 10 -20 phút hằng ngày để tĩnh tọa trước khi đi ngủ. Điều này sẽ giúp em có giấc ngủ sâu lắng. Tóm lại hòa điệu vào cuộc sống mà không đánh mất chính mình bằng sự dừng lại đúng lúc và nhìn sâu. Đời sống của mình sẽ được giảm bớt những thứ chưa thật sự cần thiết và trở nên đơn giản hơn. Nhờ vậy mà mình có dư thời gian để thưởng thức cuộc sống & hiến tặng những điều tốt đẹp cho nhau. Đó là mục tiêu của sự thực tập. Em nên tìm đọc thêm quyển Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức & An Lạc Từng Bước Chân do Sư ông viết để áp dụng thiền tập trong công việc và đời sống hằng ngày.

Có một thiền sư đã viết rằng khi ngồi vào con thuyền thì ta thấy hai bên bờ di động. Bởi vì mắt & tâm ý chúng ta đang bị cảnh vật hai bên bờ lôi kéo, nhưng kỳ thực là con thuyền của mình đang di động. Hãy cố gắng sắp xếp để nghỉ ngơi & chăm sóc chính mình nhiều hơn trong thời gian này em nhé! Cuối cùng xin tặng em bài thần chú bình an. Bất cứ khi nào thấy tâm mình muốn chạy theo hay bị cuốn hút vào điều gì em hãy đứng yên hay ngồi yên trong giây lát để định tâm lại, nhắm nhẹ mắt, buông bỏ hết tất cả các suy nghĩ trong đầu, thở đều và đọc thầm 3 lần:

Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giờ phút đẹp tuyệt vời

Có bốn câu hỏi tiếng Anh bắt đầu bằng chữ WH- khá vui cũng xin được chia sẽ với em. Đó là luôn tự hỏi mình:
What am I doing?
Where am I going?
When will I do it?
Whom am I talking with?

Luôn tỉnh thức để nhận BIẾT rõ mình đã, đang và sẽ làm gì trong mọi lúc, mọi nơi, chúng ta sẽ kiểm soát được đời sống của chính mình. Chúc em sớm lấy lại cân bằng.

Để giảm stress, học cách tĩnh tâm

(Dân trí) - Nếu mắt, tai, não của chúng ta không ngừng nghỉ hoạt động thì sẽ bị quá tải. Và theo GS Dương Lực thuộc học viện khoa học Đông Y Trung Quốc, chữa trị các bệnh do tiếng ồn gây ra, một trong những liệu pháp tốt nhất là học cách “tĩnh tâm”.



Tiếng ồn ảnh hưởng đến sức khỏe như thế nào?



Mắt “ồn”: Những ánh đèn neon nhấp nháy, những tòa nhà thẳng đứng cao chọc trời, những đám người đông đúc…không có thời khắc nào là không làm cho chúng ta hoa mắt, rối loạn. Thêm vào đó là một “hải lượng” thông tin từ bên ngoài đến làm cho mắt của chúng ta không hề được ngừng nghỉ, tựa hồ như khắp bồn bề đều ở trong bầu không khí ngột ngạt, bồn chồn.



Hơn 90% người có cảm giác mỏi mắt, 40% liên tục sử dụng mắt trong thời gian quá 6 tiếng. Tương ứng với điều này là mảng xanh ít đi, cũng ít nơi tự nhiên, hoang dã, đưa mắt nhìn ra xa, tầm nhìn bị các loại kiến trúc cao tầng mới che khuất, và có tìm thì cũng không tìm lại được màu xanh mơn mởn nhìn “no” mắt trước đây và đôi mắt của chúng ta cũng không tìm lại được phần yên tĩnh đó.



Tai “ồn”: Tiếng ồn gây ra bao nhiêu buồn bực cho chúng ta? Một cuộc điều tra chỉ rõ: 90% cho rằng tiếng ồn nghiêm trọng hơn nhiều so với trước đây; 42,8% cho biết họ thường xuyên nghe tiếng ồn từ các phương tiện giao thông khi ở trong nhà; 36,4% cho rằng không thể chịu đựng được các loại tiếng ồn của hàng xóm. Ngoài ra, tiếng nói to, cãi cọ với nhau của người đi đường, tiếng nhạc hỗn độn thậm chí là cả tiếng nhạc chuông điện thoại “sắc nhọn” đều tăng thêm buồn bực cho chúng ta.



Tim càng “ồn”: “Không phải là tôi không hiểu là thế giới này thay đổi nhanh”, chỉ mỗi câu nói này cũng sẽ nói ra bao nhiêu cội nguồn tâm trạng buồn bực của rất nhiều người. Phó giáo sư Thang Vĩnh Long- học viện tâm lý học đại học Tây Nam -Trung Quốc cho rằng, xã hội chuyển động cấp tốc làm cho chúng ta có cảm giác khả năng điều khiển tương lai của mình ngày càng yếu đi. Cân đo giữa cái được cái mất, lo lắng, buốn bực, trầm cảm, bực bội vân vân cùng đến với những sự thay đổi đó.



Một cuộc điều tra chỉ rõ, lo lắng đã trở thành bệnh thông dụng trong xã hội hiện đại ngày nay. 34% trong số chúng ta thường xuyên có cảm giác lo lắng, 62,9% thỉnh thoảng lo lắng, chỉ có 0,8% thể hiện là chưa hề lo lắng.



Yên tĩnh- phương thuốc không tốn tiền



Chúng ta tích cực theo đuổi ước mơ của mình, nỗ lực làm cho cuộc sống của mình ngày càng tốt hơn, đây vốn dĩ là một mục đích tốt, nhưng vấn đề là, nhiều người chỉ biết là phải tiến về phía trước và quên mất phải ngừng nghỉ.



Kết quả là có người vì quá mệt mỏi, đuối sức nên đột tử ở giữa độ tuổi tứ tuần; có người không vượt qua được áp lực tìm đến giải pháp tự tử; có người do không thể thích ứng với cạnh tranh, cuối cùng lại lâm vào trầm cảm; có người sống cùng với mệt mỏi và mang theo bệnh mệt mỏi cả đời để tiếp tục tiến về phía trước.



Giáo sư Dương Lực-học viện khoa học Đông Y Trung Quốc cho rằng, chữa trị nhưng căn bệnh do tiếng ồn gây ra, một trong những phương pháp tốt nhất đó là học cách “tĩnh tâm”. Tức lấy tĩnh tâm làm chủ, “tĩnh” mắt, “tĩnh” tai hỗ trợ, đây chính là nội dung chính của bài học “dưỡng công tĩnh” .



Tĩnh tâm: Đứng, ngồi hoặc nằm, để cho cơ thể mình từ đầu đến chân thư giãn. Nhắm hờ mắt, lưỡi chạm vào vòm miệng trên, hít vào đều đặn nhẹ nhàng, trải nghiệm hơi thở không khí từ mũi chạy vào cơ thể, sau đó dọc theo đường cơ thể, từ từ xuống thấp, đến gần lỗ rốn, sau đó lại thở hơi này ra. Cái vòng tuần hoàn này tức là luyện khí đơn điền. Lặp lại nhiều lần, luyện tập trong 5-10 phút sẽ đạt được hiệu quả tĩnh tâm tinh thần. Nếu tinh thần khó tập trung có thể khi đang chầm chậm hít vào, nghĩ đến những sự việc tốt đẹp, sẽ có tác dụng đạt được đến “biên giới” quên luôn bản thân mình.



Tịnh mục: Tịnh mục không có nghĩa là không nhìn, không xem mà là xem có lựa chọn. Một bức tranh đẹp có thể giúp chúng ta đạt được mục đích thanh tịnh. Tổng thư ký hiệp hội Y dược học Trung Quốc ông Lý Tuấn Đức kiến nghị, sau ngày dài mệt mỏi thì nên dành thời gian nhất định để thư giãn. Có thể đọc sách, ngắm những chú cá bơi lội.



Tịnh nhĩ: Tĩnh nhĩ không phải là không nghe mà là lựa chọn những loại âm nhạc nhẹ nhàng thoải mái và lời ca tốt đẹp để nghe. Ví dụ, một người trong đêm yên tĩnh có thể nghe bản “giao hưởng” vời âm lượng nhỏ. Khi nghe, tâm trạng bực bội, mệt mỏi sẽ dần dần tan biến cho tới lúc cảm thấy “yên bình” “tĩnh lặng”. Thậm chí bạn có thể khóc khi nghe bản nhạc đó, đây cũng là một biểu hiện của cơ thể được thư giãn.



Ngoài ra, câu cá cũng là một cách tĩnh dưỡng. Khi câu cá trong môi trường yên tĩnh sẽ dần thấy bình tĩnh. Câu cá cũng có tác dụng phụ hỗ trợ trị liệu rất tốt cho các bệnh như cao huyết áp, thần kinh suy yếu vv.



Ông Tào Khởi Phú, Phó chủ nhiệm nội khoa tim mạch Đông Tây Y kết hợp của bệnh viện Hữu Nghị Trung Nhật thuộc Bộ Y Tế Trung Quốc khuyến cáo, ngồi lâu tổn thương cho xương, vì vậy cho dù “tĩnh dưỡng” như thế nào, đều không nên duy trì ở một tư thế trong một thời gian dài. Khi luyện tập “ bài học tĩnh dưỡng” nên làm một số động tác nhẹ nhàng, ví dụ như Yoga, thái cực quyền.



Dương Hằng

Theo jk3710

MƯỜI THÓI QUEN XẤU KHÔNG TỐT CHO NÃO

Não con người có hơn 100 tỷ dây thần kinh mà mỗi dây thần kinh kết nối với 10 ngàn dây thần kinh khác. Hãy tưởng tượng sự phức tạp của não như thế thì bạn phải quan tâm đến não của bạn bằng cách tránh những thói xấu.

Não là một cơ quan của cơ thể, đó là trung tâm điều khiển hệ thống thần kinh trung ương. Nó điểu chỉnh và liên quan đến phần lớn các cử chỉ, hành vi và chức năng cơ thể như nhịp đập tim, huyết áp, sự cân bằng cơ thể và nhiệt độ cơ thể. Não cũng chịu trách nhiệm đối với các chức năng như nhận dạng, cảm xúc, trí nhớ và các hình thức học tập, nghiên cứu khác. Thực sự một nhiệm vụ rất khó và nhiều. Vì vậy, hãy tránh những thói quen không tốt dưới đây nếu bạn muốn não của bạn làm việc tốt.

1. Không ăn sáng
Chúng ta thường không ăn sáng để lượng đường trong máu thấp. Hậu quả, lượng dinh dưỡng đến não thiếu. Não cũng cần “ăn” để hoạt động cho tốt.

2. Ăn quá nhiều
Ăn quá nhiều, ngoài ra lượng mỡ cao, có thể gây ra áp lực đối với động mạch não vì xuất hiện mỡ ở thành động mạch máu. Hậu quả, khả năng làm việc của não giảm.

3. Hút thuốc
Những chất hóa học có độc trong thuốc lá mà chúng ta hít vào như carbon monoxide, sẽ gây cản trở khả năng máu vận chuyển khí oxy đến toàn cơ thể bao gồm não, sẽ làm não suy giảm nhanh chúng. Nicotin cũng làm giảm lượng cholesterol tốt cho cơ thể (HDL) và lại tăng lượng cholesterol không tốt cho cơ thể (LDL) trong máu. Hậu quả, vận chuyển mỡ bị rối loạn vì vậy nghẽn động mạch máu và cản trở quá trình vận chuyển oxy và chất dinh dưỡng đến não. Hút thuốc có thể gây ra bệnh Alzheimer.

4. Dùng đường quá nhiều
Dùng đường quá nhiều cũng có thể gây ra sự rối loạn hấp thụ protein và chất dinh dưỡng. Hậu quả sự mất cân bằng dinh dưỡng sẽ gây rối loạn phát triển não.

5. Không dùng khẩu trang chống ô nhiễm không khí
Não tiêu thụ lượng oxy khá lớn trong cơ thể. Hít không khí ô nhiễm làm giảm chất lượng oxy đến não vì vậy có thể làm giảm năng suất hoặc khả năng làm việc của não.

6. Thiếu ngủ
Não cần ngủ vì đó là lúc nghỉ ngơi và phục hồi năng lực. Thiếu ngủ trong một thời gian dài sẽ làm nhanh chúng tổn thương những tế bào não.

7. Trùm đầu khi ngủ
Thói quen trùm đầu khi ngủ sẽ làm gia tăng tập trung chất carbon dioxit vì vậy sẽ làm giảm quá trình hấp thụ khí oxy, từ đó có thể làm tổn thương não.

8. Không suy nghĩ thường xuyên
Suy nghĩ cũng là cách tập luyện não của chúng ta. Thiếu sự kích thích não sẽ làm giảm khả năng làm việc của những tế bào thần kinh não vì vậy gây ra teo não.

9. Ít giao tiếp
Giao tiếp cần thiết vì đó là một trong những phương tiện để hướng đến khả năng làm việc của não. Giao tiếp một cách trì trệ não sẽ làm việc một cách tối đa. Ít giao tiếp sẽ làm cho khả năng làm việc của não thiếu sự luyện tập.

10. Suy nghĩ nhiều khi bệnh
Làm việc quá sức hoặc ép buộc suy nghĩ khi đang bệnh có thể gây ra sự suy nhược não và giảm năng suất làm việc vì vậy có thể làm tổn thương não.

Bí quyết tối ưu hóa tiềm năng của bạn

Bạn có đang làm tất cả để vận dụng hết những khả năng của mình. Bạn có thể thẳng thắn không chút do dự cho rằng mình yêu thích công việc hiện nay và thật không ngờ mình được tưởng thưởng đến thế.

Nếu bạn cũng là người như đa số mọi người, chắc chắn bạn mong muốn sự thành công, tạo lập một cuộc sống tuyệt vời và gặt hái những phần thưởng trong cuộc đời. Tóm lại, bạn mong ước một cuộc sống phồn vinh. Và vì thế, bạn phải sống và cống hiến hết mình để hiện thực hoá ước mơ đó.
Đó cũng là lý do vì sao, với rất nhiều người, kể cả những nhà quản trị quyền lực, câu trả lời của họ cho một và thậm chí là cả hai câu hói trên là "không". Điều này có liên quan gì với việc bạn không mang hết khả năng sẵn có của mình vào công việc hay tệ hơn là bạn đang làm công việc mà mình không hề yêu thích?

Tìm ra lĩnh vực sở trường của bạn
Hãy nghĩ về điều này: Có phải mọi kế toán đều có lòng say mê vô hạn với các con số? Có lẽ là không. Một số người thực ra chỉ là nạn nhân của những bậc cha mẹ không ưa con mình theo nghiệp nghệ thuật, hoặc của những sức ép khách quan tuân theo một thể thức định sẵn, bảo đảm hơn, đáng tin hơn.

Bạn chỉ cần nhớ ráng lý do để Tiger Woods thành công như vậy là bởi ông đã dành cả đời mình biến đam mê tuổi nhỏ thành một sự nghiệp chuyên môn phát đạt.

Quan niệm rõ ràng về thành công
Dù là vì lý do gì, khá nhiều người thoả mãn được những ước mong thầm kín và thiên hướng ẩn giàu trong họ trong những sự nghiệp được xã hội chấp nhận cao, tin tưởng rằng một năng lực ưu tú và vòng quay tiền mặt ổn định là đủ cho một người mãn nguyện.
Tất nhiên, bạn cũng có thể nghe rất nhiều lời chứng thực từ lớp người này cho ráng họ hạnh phúc. Bởi rốt cuộc họ có rất nhiều tiền và một cuộc sống tiện nghi chưng diện đầy thú vị.
Nhưng những con người đó có thực sự hài lòng. Họ dã là tất cả những gì mình có thể chưa, hay họ chỉ tin vào một niềm tin vô hạn là thành công được đánh giá hởi độ dày của chiếc ví? Tưởng tượng xem bạn sẽ tiến bao xa khi theo đuổi một điều gì bạn thực sự có khả năng? Nắm bắt được đúng những tài năng của mình và hiện thực hoá những tiềm nang đó, bạn sẽ bay lên những tầm cao mới.

Bạn thực sự giỏi lĩnh vực nào?
Tên Turner, nhân vật quyền lực của giới truyền thông. CEO của Turner Broadcastlng System, có thể được xem là tấm gương mẫu mực cho việc làm thế nào để tận dụng hết khả năng của bạn.
Ông nhận thấy cơ hội của mình và lấy đó đế hiện thực hoá ước mơ mang cá thế giới lại với nhau qua con đường viễn thông. Với bản năng sắc bén và lương tri kinh doanh, ông đã làm tất cả những gì cần thiết để đi tới thành công.

Nhưng quyết định theo nghiệp media của ông không phải chuyện chơi. Ông đã rõ điểm mạnh của mình là gì, biết mình đam mê cái gì và khôn ngoan xây dựng cho mình một sự nghiệp trên những điều đó, để trở thành một tỷ phú trong quá trình này. Và đó cũng là thông điệp trong bài viết này: Bạn cần khám phá lại xem những đam mê và năng lực thiên bẩm của bạn là gì và đưa chúng lên những cấp độ thành công cao hơn.

5 bước đơn giản dưới đây nhằm biến những mơ ước của bạn thành hiên thực.

1. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu
Một cách tuyệt vời để bắt đầu việc này là xác định xem đâu là những kỹ năng trời phú cho bạn, và đâu là những năng lực bạn có học mãi cũng không xong. Làm một danh sách những điểm mạnh và điểm yếu bạn sẽ rất có ích, bởi bạn sẽ dễ dàng nhìn nhận mình hơn khi đã viết được chúng ra.
Hãy tự hỏi mình những câu hỏi thẳng thắn: Cái ý nghĩ rằng mình sẽ đi làm vào buổi sáng làm bạn phải khom mình? Bạn có đang là tất cả những gì mình có thể? Bạn có đang làm cái mà bạn cho là vì những lý do đúng? Còn điều gì khác bạn rất mong đạt được trong cuộc đời mình?
Nếu bạn luôn luôn quan tâm đến thị trường nhà đất mà chưa bao giờ theo đuổi nó thì ban còn chờ đợi gì nữa? Chọn được con đường sự nghiệp đúng là đi theo lĩnh vực mà bạn giỏi giang chứ không phải những gì bạn nghĩ mình nên làm.
Bạn cũng có thể rút kinh nghiệm từ quá khứ và thử lấy ý kiến từ những người xung quanh xem sao, bởi những người biết ro bạn có thể cung cấp cho bạn một cái nhìn thấu đáo và năng lực thực sự của bạn.
Trên tất cả, hạn không được do dự. Hãy thẳng thắn và thậm chí tàn nhẫn chừng nào bạn cần là chính mình. Bởi, cuối cùng thì đây là tương lai của bạn kia mà.

2. Khởi xướng
Khi đã hình dung được những gì cần làm cũng là lúc cho bạn thực hiện bước đầu tiên quan trọng. Hãy viết ra kế hoạch hành động của mình, đặc biệt lưu ý bạn định đạt đến mục tiêu hạnh phúc tiềm nang đó như thế nào. Hãy cho mình một khung thời gian nghiêm ngặt nhưng hợp lý, và nghiêm chỉnh tuân theo.
Đừng sợ lại phải bắt đầu một sự nghiệp mới, một nơi chốn mới hay bị cắt lương. Như lời một ca sĩ thông thái: “Cuộc đời là một hành trình, không phải một đích đến ".
Hãy làm tốt kế hoạch của mình và liên hệ với những ai có thể giúp bạn.

3. Thực thi kế hoạch
Đúng là với một người vững vàng về kinh tế, việc bỏ dở giữa chừng một công việc sẽ không là vấn đề gì lắm. Nhưng bắt đầu lại tất cả dường như quá mạo hiểm với nhiều người, đặc biệt là những ai phía sau còn cả một gia đình cần cung cấp Sự khởi đầu lại vì vậy không phải là một con đường êm ái, ít nhiều sẽ có những chướng ngại, thất vọng kéo theo. Nhưng từ bỏ việc đó nghĩa là bạn sẽ tước đi của mình cơ hội có được thành công cùng sự mãn nguyện cao hơn. Vì thế, hãy cố gắng tập trung và tiếp tục con đường cửa bạn, nếu không tận lâm cho bất cứ việc gì, kể như bạn làm điều đó chỉ mất công. Dù con đường đó có gian nan đến đâu, bạn hãy nhớ phía cuối đường hầm là ánh sáng.

4. Tận dụng những nguồn lực sẵn có
Hãy gặp gỡ những người thành công trong lĩnh vực bạn đang theo đuổi hỏi xin họ lời khuyên. Ghi chú lại những lần liên hệ này, chúng có thể rất có ích với ban, và nhớ là luôn có bên mình những con người có nhiều ảnh hưởng. Ví dụ, nếu bạn đang nhằm vào ngành luật, thì cô kế toán viên của bạn có thể biết một luật sư giỏi có thể giúp bạn.
Và tất nhiên, không ai khuyên bạn làm tất cả những chuyện này một mình Trong một thế giới cạnh tranh như hiện nay, bạn tận dụng được càng nhiều sự giúp đỡ càng tốt và hãy dẹp lòng kiêu hãnh của mình lại. Bởi lòng kiêu hãnh chính là chỗ nương thân cho sự bấp bênh.

5. Luôn có một hệ thống hỗ trợ bên mình
Hãy tạo cho mình một mạng lưới những người có thể hướng dẫn, dạy bảo và hỗ trợ bạn những khi cần thiết cả về luân lý lẫn tài chính. Đó có thể là vị sếp cũ người thầy thông thái hay ông bố già tốt bụng.
Bạn cũng có thể có bên mình một người bạn cùng hội cùng thuyền, và việc biết rằng mình không cô độc sẽ đỡ đi phần nào gánh nạng trên vai bạn cho một đối thay hoàn toàn như thế này.
Và lòng tự tin cũng là một yếu lố không thể thiếu. Cho dù bạn có là CEO của một tập đoàn khổng lồ, những động cơ cho con đường sự nghiệp bạn chọn cũng có thế thấy qua lối cư xử của bạn. Nếu thực sự hài lòng với công việc của mình sẽ khiến bạn trở nên một con người tích cực hơn nhiều, và khiến những người xung quanh chắc chắn sẽ lấy đó làm học tập.
Để thực sự thành công, bạn phải tận dụng được những khả năng của bản thân để tìm cho mình một địa vị tốt trong xã hội. Những gì thuộc về bạn là điều quan trọng duy nhất để xem xét khả năng thành đạt của bạn Cuối cùng: Nếu bạn muốn có được những phần thưởng lớn, bạn phải dám đón nhận những rủi ro cao. Sau đó, bạn có thể có tất cá, hay ít ra cũng là một điều gần như thế.

Những thực phẩm làm giảm trí nhớ nhanh chóng [Giảm trí nhớ]


Muốn giữ được đầu óc minh mẫn và duy trì trí nhớ, hãy thận trọng và hạn chế ăn những loại thực phẩm sau đây.Những thói quen tốt nhất cho não bộHạt hướng dương chứa chất gây teo nãoHàng loạt món ăn vặt dính chất độc gây teo não
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thói quen ăn uống có liên quan mật thiết tới “sức khỏe” của não bộ. Bên cạnh những thực phẩm có lợi cho sức khỏe não bộ thì cũng có những thực phẩm khiến trí nhớ của bạn sa sút nhanh chóng.

1. Đồ ăn có vị chua

Thực phẩm có vị chua như chanh, dưa muối… chứa nhiều vitamin C giúp tăng cường sức đề kháng. Tuy nhiên, ăn quá nhiều đồ chua lại làm mất cân bằng độ pH trong cơ thể, từ đó ảnh hưởng tới chức năng của não bộ, gây mất tập trung và suy giảm trí nhớ.

Hãy biết cách cân bằng độ pH trong cơ thể để bảo vệ sức khỏe cho não bộ qua việc kết hợp hợp lý các thực phẩm chứa axit và kiềm trong bữa ăn hàng ngày.

2. Đồ ăn chứa nhiều cholesterol

Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, khẩu phần ắn chứa chất béo và cholesterol cao có liên quan chặt chẽ đến tổn thương của hệ thần kinh trung ương.

Do lượng mỡ tích tụ dần vào thành mạch, những khẩu phần ăn chứa cholesterol có thể hạn chế oxy lên não, lâu dài sẽ gây tổn thương các nơ-ron thần kinh, làm giảm trí nhớ.

3. Đồ ăn nhiều muối

Muối không thể thiếu cho các món ăn cũng như sức khỏe cơ thể. Tuy nhiên, lạm dụng quá nhiều muối trong các món ăn lại là cách nhanh nhất làm tổn thương não bộ.

Hàm lượng muối natri dư thừa trong thời gian dài sẽ tích tụ trong cơ thể, làm cản trở quá trình lưu thông máu lên não. Các tế bào não không được bổ sung oxy đầy đủ sẽ dễ bị lão hóa khiến bạn nhận thức chậm và nhanh quên.

4. Đồ uống có cồn

Rượu bia và các đồ uống có cồn là kẻ thù số 1 của bộ não bởi thành phần các chất kích thích và gây nghiện có trong rượu bia khi bị tích tụ lâu ngày có thể ức chế hoặc tê liệt hoạt động của các tế bào não.

Nhiều nghiên cứu còn chỉ ra rằng, những người nghiện rượu thường có kích thích não bộ nhỏ hơn và khả năng ghi nhớ kém hơn hẳn so với những người không uống rượu. Một lượng rượu bia vừa phải mỗi ngày là chất “kích thích” não bộ nhưng quá nhiều lại gây những tổn thương trầm trọng.

5. Thực phẩm chiên, rán

Ở nhiệt độ cao, thực phẩm thường sản sinh hàm lượng các chất oxy hóa cao. Các chất oxy hóa này có thể “làm hỏng” hoặc làm rối loạn hệ thống trao đổi chất trong cơ thể, từ đó thúc đẩy quá trình lão hóa tế bào, trong đó có các tế bào hại não, gây giảm trí nhớ.

6. Đường

Đường tinh chế khi ăn quá nhiều, cơ thể không hấp thu hết sẽ tạo thành các chất có hại cho cơ thể. Ăn thức ăn có hàm lượng fructose cao trong thời gian dài gây tác hại đến khả năng tiếp nhận và ghi nhớ thông tin của não.

Các loại hoa quả ngọt chứa đường tự nhiên, ít gây hại cho cơ thể. Hoặc nếu bạn là tín đồ của các loại bánh kẹo ngọt thì đừng quên bổ sung omega-3 vào các bữa ăn vì omega-3 tạo “lá chắn” giúp giảm thiểu tác hại của đường tới các tế bào não.

7. Thực phẩm nhiễm độc

Thịt cá, rau quả chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và thuốc trừ sâu quá mức cho phép cũng là kẻ thù của não bộ.

Các chất độc hóa học tích tụ lâu ngày trong cơ thể có thể gây ra nhiều bệnh ung thư nguy hiểm hoặc làm suy giảm trí nhớ ngay cả ở những người trẻ tuổi.

[Theo: afamily]

Những thói quen tốt nhất cho não bộ [Tăng cường sức khỏe cho bộ não]


Cách dễ nhất để cải thiện sức mạnh bộ não giúp bạn luôn sáng suốt trong nhận thức sự việc là hãy tạo cho mình một số thói quen lành mạnh.

Bạn muốn có trí nhớ tốt hơn, có sự sáng tạo hơn hoặc có khả năng giải quyết vấn đề một cách dễ dàng hơn...? Làm thế nào để có thể đạt được tất cả điều này? Rất đơn giản, chỉ cần thực hiện các thói quen sinh hoạt lành mạnh hàng ngày, chắc chắn sức mạnh tinh thần của bạn sẽ được cải thiện.

1. Không ngừng học hỏi

2. Những thói quen lành mạnh mà bạn cần tuân thủ:

- Ngủ tốt

Giấc ngủ vô cùng quan trọng đối với toàn bộ cơ thể của bạn. Một giấc ngủ tốt sẽ giúp cho một bộ não khỏe mạnh.

Bạn nghĩ rằng mình chỉ cần ngủ 4-5 giờ mỗi ngày là đủ, vì bạn cần nhiều thời gian để làm các việc khác hơn là ngủ. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ bạn muốn ngủ bao lâu mà là: thời gian ngủ phải đủ vì nó cần cho nhu cầu não và cơ thể của bạn.

Bạn cần bao nhiêu giờ để ngủ mỗi đêm? Thời gian ngủ phụ thuộc vào hoạt động và cuộc sống của bạn. Một số người có thể ngủ 6 giờ và cảm thấy đã khỏe khoắn trở lại trong khi một số người cần ngủ 9 giờ mỗi ngày mới đủ.

Tuy nhiên, ngủ nhiều hơn 9 giờ và ít hơn 6 giờ mỗi ngày lại không tốt cho sức khỏe của bất kì ai. Sở dĩ, con người cần ngủ là vì, trong lúc ngủ, toàn bộ cơ thể được nghỉ ngơi để tái tạo năng lượng và sửa chữa những hư hỏng của các tế bào cũng như giúp các cơ quan thực hiện tốt các chức năng.

Thiếu ngủ sẽ làm cho các tế bào não yếu đi và có thể bị "tiêu diệt", từ đó làm suy giảm "sức mạnh" của não bộ.


- Ăn thức ăn tốt cho não

Một chế độ ăn uống tốt không có nghĩa là bạn đã cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho não của bạn. Bạn có chắc chắn rằng bạn ăn đủ thức ăn giúp tăng sức mạnh tinh thần của mình? Thực tế, có thể bạn có cơ thể rất khỏe mạnh, mức độ cholesterol thấp, nhưng bộ não của bạn vẫn có thể bị "chết đói".

Thực phẩm được coi là tốt nhất cho bộ não là axit béo omega-3. Axit béo omega-3 có nhiều trong các loại thực phẩm như quả óc chó, đậu nành, cá hồi, cá ngừ và các thực phẩm khác... Có thể bạn chưa có thói quen ăn các loại thực phẩm này hàng ngày, nhưng hãy chọn chúng làm món ăn vặt tại nơi làm việc để bổ sung loại axit béo có lợi cho não bộ này.

Ngoài ra, cố gắng tránh chất béo bão hòa và thực phẩm nhiều calo bởi chúng có hại cho bộ não của bạn và làm giảm chức năng hoạt động tốt của não bộ.

Đây là một thói quen bắt não của bạn liên tục phải tư duy, sáng tạo và tìm tòi, học hỏi những cái mới. Điều này không những giúp bạn luôn năng động mà còn giúp bạn tự tin, nhạy bén trong nhận thức. Mặt khác nó làm tăng sức mạnh tinh thần của bạn vì não bộ liên tục hoạt động.

Không quan trọng việc bạn học hỏi như thế nào, bạn có thể đọc sách hoặc xem tivi, khám phá, trò chuyện với ai đó... Hãy tập cách không giới hạn suy nghĩ của mình và tăng trí tưởng tượng để có được những thông tin mới.

[Theo: afamily]

TRÍ TUỆ trong ĐẠO PHẬT


Người ta thường nói đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ.

Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu không có từ bi thì không có đạo Phật. Đạo Phật là con đường diệt khổ, vậy thì từ là đem vui, bi là cứu khổ, còn gì đúng hơn nữa khi nói đạo Phật là đạo của từ bi?

Nhưng người ta cũng có thể tự hỏi : có thể nào thâu gồm lại đạo Phật trong hai chữ từ bi? Liệu từ bi có đủ để định nghĩa đạo Phật, để phân biệt đạo Phật với các tôn giáo và triết thuyết khác? Nói một cách khác, có thểnào xem từ bi như là một đặc điểm của đạo Phật?

Nhìn chung quanh, chúng ta thấy đạo giáo nào cũng chủ trương tình thương bao la, rộng lớn, như lòng bác ái của đức Ky Tô, thuyết kiêm ái của Mặc tử. Nhưng chỉ có đạo Phật mới nổi bật lên bằng sự đề cao trí tuệ. Có thể nói rằng trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, không có một tôn giáo nào đặt trọng tâm vào vai trò của trí tuệ hơn làđạo Phật. Bởi vì Buddha (Phật) phát xuất từ chữ Phạn bud, có nghĩa là hiểu biết. Đức Phật là người đã hiểu biết trọn vẹn, đã tỉnh thức, đã giác ngộ, là người có trí tuệ vẹn toàn.

Như vậy có thểnói rằng trí tuệ mới chính thực là đặc điểm, là nền tảng, là cốt tủy của đạo Phật.

Trí tuệ là gì ?

Trước hết, chúng ta phải hiểu rõ trí tuệ trong đạo Phật là gì, bởi vì trí tuệ có một ý nghĩa rất đặc biệt trong đạo Phật. Trí tuệ trong đạo Phật phải được phân biệt với quan niệm thông thường về trí tuệ.

Theo nghĩa thông thường, trí tuệ là kết quả của hoạt động trí thức (intellect), dựa lên lý trí (raison), dùng đến lý luận, khái niệm, ngôn từ, và chủ yếu gồm những sự hiểu biết, những kiến thức đã được gom góp lại.

Trong đạo Phật, trí tuệ cũng được gọi là trí huệ, bởi vì cùng một chữ Hán có thể đọc là huệ hay là tuệ. Người Hoa thường đọc là huệ (tiếng quan hỏa đọc là “huậy”), trong khi người Việt hay dùng chữ tuệ hơn, với đa số những chữ ghép thuộc danh từ nhà Phật, như tuệ căn, tuệ giác, tuệ kiếm, tuệ lực, tuệ nhãn, tuệ tâm, tuệ tánh… Tiếng Pali là pañña, tiếng Phạn là prajñâ, và khi phiên âm sang tiếng Hoa thì trở thành Bát Nhã(chữ ñ đọc như là nh của tiếng Việt).

Triết lý Ấn Độ cổ xưa có 3 danh từ để chỉ định sự hiểu biết : ñâna (p) / jñâna (s), viññâna (p) / vijñâna (s) vàpañña(p) / prajñâ (s).

- Ñâna thường chỉ định sự hiểu biết thông thường, theo nghĩa rộng của nó. Trong một số kinh điển, người ta cũng gặp chữ ñâna dùng theo nghĩa pañña.

- Viññânalà sự hiểu biết dựa lên lý trí, dùng phương pháp suy luận và phân tích.

- Trong khi đó, pañña là trí huệ thâm sâu, sự hiểu biết toàn diện, có tính chất trực giác, không dựa lên lý luận, khái niệm, ngôn từ, mà vượt khỏi ngôn từ. Tiếng Pháp thường dịch là sagesse,connaissance profonde, transcendantale, hay cognition intégrale, nhưng những chữ đó vẫn chỉ diễn tả được một phần nào cái không thể diễn tả được.

Chính vì khó dịch cho nên tại các nước Á châu, người ta thường giữ nguyên phiên âm chữ Phạn, Bát Nhã trí huệ (Hoa) hay hannya-chie (Nhật) để chỉ định trí tuệ trong đạo Phật.

Trí tuệ Bát Nhã và trí tuệ thông thường, như khoa học chẳng hạn, còn khác nhau ở nơi đối tượng của sự hiểu biết. Như đức Phật đã nói rõ trong bài bài thuyết pháp “lá trong rừng Sinsapa”, sự giảng dạy của ngài chỉ nhằm vào con đường giải thoát, là điều cấp bách và thiết thực nhất. Nếu so sánh khoa học và đạo Phật với những tia sáng, thì chúng ta có thểví khoa học với ánh sáng tỏa khắp nơi, và đạo Phật với một tia laser tụ hết cả năng lực vào một điểm, tức là diệt khổ.

Trong đạo Phật còn một danh từ nữa gần với huệ là giác (bodhi, phiên âm là Bồ đề). Giác là thức tỉnh, đối lại với ngủ mê. Vì vậy trong nghi thức tụng niệm, chúng ta thường gặp câu “… xa bể khổ nguồn mê, chóng quay về bờ giác”. Và trong đạo Phật, giác ngộ và tuệ giác là mục đích của người tu Phật, đi theo gót của đức Phật Thích Ca, là vị “Chánh đẳng chánh giác”(samma-sambuddha), là người đã giác ngộ hoàn toàn.

Trí tuệ trong đạo Phật Nguyên thủy

Vai trò của trí tuệ trong đạo Phật nguồn gốc (primitif) và đạo Phật Nguyên thủy (Theravada) rất rõ ràng, sáng sủa: trí tuệ là phương tiện duy nhất đưa tới giác ngộ, và giải thoát khỏi khổ đau. Bài “Trí tuệ trong đạo Phật” của HT Thích Minh Châu (trong site Internet Buddhasasana) đã trình bầy một cách minh triết và đầy đủ về vấn đề này. Tôi chỉ xin nhắc lại một vài điều căn bản trong giáo lý của đạo Phật Nguyên thủy.

Nếu chúng ta lấy “vòng mười hai nhân duyên” (paticca-samuppâda) mà xét lại, thì chúng ta sẽ thấy đầu mối của sự khổ đau, của sự đọa đầy trong vòng trầm luân của con người chính là vô minh (avijjâ). Vì vô minh là đầu mối của vấn đề, cho nên trí tuệ chính là giải đáp của vấn đề.

Trong “con đường chánh tám nẻo” (atthangika-magga), chánh kiến (sammâ-ditthi) và chánh tư duy (sammâ-sankappa) là hai nẻo thuộc về huệ (pañña), là giai đoạn cuối cùng, quan trọng nhất của sự tu tập (trong khi chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về giới, sila, và chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định, samâdhi). Dĩ nhiên sự tu tập theo đạo Phật không thể phân chia ra thành từng giai đoạn rõ rệt như vậy, và tám nẻo của con đường đó phải được đi đều với nhau, nhưng chúng ta cũng có thể nhận thấy trong sự phân chia đó môt trình tự phù hợp với những gì xảy ra trong tâm lý con người. Phải nhiếp được thân khẩu ý (giới), thì mới tinh tấn, niệm và định tâm được (định), và như vậy thì mới hiểu và nhìn rõ được sự thật (huệ).

Trong kinh Pháp Cú (Dhammapada), là một trong những kinh cổ xưa nhất của đạo Phật, có một phẩm nói về “người ngu và kẻ trí“. Ngu phải hiểu ở đây không phải là sự ngu dốt, đần độn, kém thông minh, thiếu kiến thức, mà phải hiểu như sự mê muội, đắm chìm trong những đam mê, ảo tưởng của cuộc đời. Trí, như đã nói trên, không phải là sự thông minh, uyên bác, mà là sự hiểu biết sâu xa, trọn vẹn, về con đường chánh, đưa tới an lạc và hạnh phúc. HT Minh Châu có lấy thí dụ một người có rất nhiều kiến thức về rượu, biết rõ những chất liệu của rượu, những tác động của rượu trên cơ thể, nhưng vẫn uống nhiều rượu, vẫn say và nghiện rượu, vẫn bị rượu chi phối. Như vậy thì người ấy có trí thức chứ không có trí tuệ về rượu, người đó là người ngu. Trái lại, một người hiểu biết về rượu, nhưng cũng biết rõ sự nguy hại của rượu, không uống rượu say, không nghiện rượu, vượt ra khỏi sự chi phối của rượu. Như vậy người ấy mới thật là có trí tuệ về rượu, người ấy mới là kẻ trí.

Nói tóm lại, trí tuệ trong đạo Phật Nguyên thủy có mặt trong suốt tất cảgiáo lý căn bản của đạo Phật: “bốn sự thật, con đường tám nẻo, ba pháp ấn, lý nhân duyên”… và đóng một vai trò chủ chốt trên con đường đưa tới giải thoát và giác ngộ.Trí tuệ có nghĩa là hiểu biết trọn vẹn và hành trì theo Chánh Pháp, để phá bỏ màn vô minh và nhận chân sự thật.

Trí tuệ trong đạo Phật Đại thừa

Trí tuệ chính là sợi dây nối liền đạo Phật nguồn gốc, đạo Phật Nguyên thủy và đạo Phật Đại thừa (Mahâyâna). Người ta thường gọi Trưởng Lão Bộ (Sthaviravada), tiền thân của đạo Phật Nguyên thủy (Theravada), là “Cổ phái Trí tuệ” (Ancienne Ecole de Sagesse), và gọi phái Trung Quán (Mâdhyamaka) của Đại thừa là “Tân phái Trí tuệ” (Nouvelle Ecole de Sagesse).

Thật ra, như chúng ta được biết, trong lịch sử phát triển của đạo Phật, các trường phái Đại thừa phân chia ra làm hai khuynh hướng: một bên là trí tuệ và một bên là đức tin.

Tiêu biểu nhất cho trí tuệ là hệ thống Bát Nhã, dựa lên bộ kinh đồ sộ Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajñâpâramitâ-sûtra), (toàn bộ in ra được 600 quyển), với hai bài kinh quan trọng nhất là Đại Bát Nhã Tâm Kinh (Mahâprajñâpâramitâ-hrdaya-sûtra) và Kinh Kim Cương (Vajrachchedika-prajñâpâramitâ-sûtra). Tinh thần Bát Nhã được triển khai bởi ngài Long Thụ (Nâgârjuna), cầm đầu phái Trung Quán (Mâdhyamaka), nhà luận sư nổi tiếng đã chứng minh một cách sắc bén rằng sự thật không thể nào hiểu thấu được bằng lý luận. Theo ngài, trí tuệ là con đường khó, mà đức tin là con đường dễ. Ngài giảng muốn hiểu giáo lý của đức Phật thì phải hiểu hai mức độ, hay đúng hơn hai kích thước của sự thật, sự thật tương đối (samvriti-satya) và sự thật tuyệt đối (paramartha-satya). Và sự thật tuyệt đối là tánh Không (sûnyatâ), là cái không thể nghĩ bàn, không thể nắm bắt bằng những khả năng thông thường của trí tuệ, mà chỉ có thấu hiểu được bằng trực giác, bằng thực nghiệm.

Bài Đại Bát Nhã Tâm Kinh, tuy chỉ có 260 chữ, nhưng chứa đựng được tất cả cốt tủy của tinh thần Bát Nhã. Pâramitâ có nghĩa là vượt qua. Người ta có thể hiểu theo nghĩa vượt qua bên kia bờ, bên này là vô minh phiền não, bên kia là giác ngộ giải thoát, và trí tuệ Bát Nhã là con thuyền chở con người qua bên kia bờ sông. Nhưng đọc và thấm cả bài kinh, chúng ta mới thấy rằng trí tuệ theo tinh thần Bát Nhã rất là đặc biệt, có thể gọi là siêu việt. Trong bài kinh có câu “vô trí diệc vô đắc”, nghĩa là không có trí tuệ mà cũng không có chứng đắc. Sau khi khẳng định rằng “không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”, thì kinh nói rằng “không có vô minh, cũng không có hết vô minh, không có già chết, cũng không có hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứngđắc “, tức là tất cả những gì đã học trong giáo lý căn bản của đức Phật đều không có thật, đều là những chân lý tương đối, tạm bợ… Bởi vì tướng Không của các pháp là không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt, không một không hai. Thấu được lẽ Không của các pháp, của mọi sự vật, mới là trí tuệ thực sự, vượt qua cả trí tuệ (au-delà de la sagesse). Đó mới là ý nghĩa của kinh Bát Nhã siêu việt, tức là Prajñâpâramitâ-sûtrâ, bộ kinh căn bản của Đại thừa.

Trí tuệ trong Thiền tông

Tinh thần Bát Nhã được tiếp nối trong Thiền tông Trung Hoa, từ vị sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) từ Ấn Độ qua vào thế kỷ thứ 6. Người ta thường gán cho ngài Bồ Đề Đạt Ma 4 câu thu gọn lại tôn chỉ của Thiền, là “Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật “. Nhưng thật ra, theo các nhà Phật học, thì Lục tổ Huệ Năng mới là tác giả của tôn chỉ này. Và điểm quan trọng là ngài đã đánh dấu một khúc ngoặt, đã làm một cuộc cách mạng trong Thiền tông bằng cách thay thế quan niệm “khán tâm” bằng quan niệm “kiến tánh”.

Theo ông Daisetz Suzuki, hai chữ “khán” và “kiến” đều có nghĩa là “nhìn”, song chữ “khán” có chữ “thủ” trên chữ “mục”, như bàn tay để trên mắt để che ánh sáng, với ý nghĩa “cố gắng nhìn” (hay là “nhòm, soi”, (regarder, scruter), trong khi đó “kiến” chỉ có chữ “mục” trên đôi chân, tức là “thấy”, một cách tự nhiên, không cố gắng (voir). Như vậy, quan niệm cổ điển của Thiền là “khán tâm”, cố gắng nhìn vào cái tâm của mình, soi cái tâm của mình, trong khi đó ngài Huệ Năng chủ trương “kiến tánh”, nhìn thấy cái tánh, cái Phật tánh trong mình, một cách tự nhiên và hồn nhiên, không cố gắng.

Từ đó, cái nhìn của Thiền về trí tuệ trở nên vô cùng đơn giản : “mây tan thì trăng hiện”. Không cần phải mài viên gạch để mong nó trở thành tấm gương, không cần phải tự hỏi cây phướn động hay gió động. Chẳng nên phân tách, đắn đo, suy nghĩ, bởi vì chỉ cần một niệm dấy lên là bị sương mù cuốn đi xa ngàn dặm. Bởi vậy cho nên giác ngộ có thể tới từ một tiếng hét, từ một viên đá văng vào một khúc gỗ, một mảnh tượng Phật bùng cháy… Phật chính là tuệ giác, là ở trong tâm mình chứ không đâu xa lạ. Tìm trí tuệ ở đâu khác cũng là “ôm cây đợi thỏ” hay “khắc thuyền tìm kiếm”.

Thiền cũng ở trongđường hướng chung của Bát Nhã, không chấp trước, không phân biệt, không mong cầu, không trụ vào đâu. Chính “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là câu trong kinh Kim Cương đã khai trí tuệ cho Lục tổ Huệ Năng và vua Trần Thái Tông.

Con đường phát triển trí tuệ

Làm thế nào đểphát triển trí tuệ? Đó là câu hỏi chung của những người tu học Phật.

- Đối với người mới học Phật thì đạo Phật có vẻ phức tạp, với nhiều môn phái, kinh điển, không biết nên theo ai, bắt đầu bằng gì. Với niềm lo âu là nhỡ lầm thầy, lẫn sách thì có thể sai đường, mất thời giờ hay có khi có hại.

- Đối với người đã lâu năm tu học Phật, thì nhiều khi thấy rằng mình tuy đã có khá nhiều hành lý về giáo lý, nhưng vẫn dậm chân tại chỗ, và thực tế mà nói vẫn chưa tiến được bao nhiêu (đôi khi có lẽ vì hành lý nặng quá!).

Đạo Phật là một con đường thực nghiệm. Mỗi người tự rút ra những kinh nghiệm cá nhân, chỉ có giá trị cho chính mình. Nhưng dẫu sao, từ nhiều kinh nghiệm cá nhân, chúng ta cũng có thể rút ra một số bài học chung:

1. Những lịch trình tu học Phật thường được theo từ xưa tới nay vẫn còn giá trị.

* Đó là “tam vô lậu học”, tức là giới (sila), định (samâdhi) và huệ (pañña).

* Đó là “văn, tư, tu”, tức là ba loại hiểu biết, được phân biệt trong Trường Bộ Kinh (Digha-nikaya) và Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi-magga): sự hiểu biết dựa lên học hỏi (sutta-maya-pañña), sự hiểu biết dựa lên suy tư (cinta-maya-pañña) và sự hiểu biết dựa lên tu tập (bhavana-maya-pañña).

* Đó là ” lục độ Ba la mật “, tức là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ.

2. Trí huệ dĩ nhiên là giai đoạn cuối cùng và cao nhất. Nhưng chúng ta cũng không quên được vai trò cốt yếu của thiền định (bhavanahayjhâna / dhyâna): chính nhờ thiền định mà đức Phật Thích Ca đã giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề, và chỉ có thiền định mới giúp phát triển được trí huệ, nhờ hai phương pháp là chỉ (samatha, calme mental, tranquillity), tức là định (samâdhi), và quán (vipassana, vision pénétrante, insight). Một câu hỏi có thể đặt ra, nhưng có lẽ chỉ có những đương sự mới có thể trả lời được: tụng niệm (theo Tịnh Độ tông chẳng hạn) có thể đưa tới trạng thái chỉ (hay định), nhằm đi tới “nhất tâm bất loạn”. Nhưng liệu tụng niệm có thể nào đưa tới trạng thái quán, và như vậy đưa tới huệ không?

3. Kinh điển có cần thiết hay không trong sự phát triển trí tuệ? Thiết tưởng đạo Phật là con đường trung đạo, cho nên cũng nên nhìn kinh điển trong tinh thần đó.

Kinh điển chỉ là phương tiện, là ngón tay chỉ mặt trăng, cho nên không nên coi kinh điển là chính yếu, không nên bám víu vào kinh điển, và bù đầu bù óc vào kinh điển.

Ngược lại, cũng không nên bác bỏ mọi kinh điển, bởi vì kinh điển có thểgiúp mình tiến bước trên con đường tu học. Chúng ta nên nhớ rằng ngay cả những người có căn cơ xuất chúng như ngài Huệ Năng cũng nhờ nghe câu kinh mà ngộ đạo.

Liên hệ giữa từ bi và trí tuệ

Nói về trí tuệ sẽ rất thiếu sót nếu không nói tới những tương quan giữa từ bi và trí tuệ.

Người ta thường cho rằng đạo Phật Nguyên Thủy đặt nặng về trí tuệ, trong khi đạo Phật Đại Thừa đặt nặng về từ bi. Sự thật không hẳn là như vậy.

Trong kinh Từ Bi (Metta-sutta), thuộc hệ thống Pali, đức Phật đã dậy cho chúng ta phải thương yêu, cứu độ tất cả các chúng sanh, không phân biệt, không điều kiện, không giới hạn. Trong bài kinh này, ngài không nói tới những liên hệ mật thiết giữa trí tuệ và từ bi, nhưng nếu chúng ta hiểu rõlý duyên khởi, là sự tương quan, tương duyên, tương tác, tương hữu giữa mọi sự vật, thì sự liên hệ mật thiết giữa từ bi và trí tuệ trở nên vô cùng sáng tỏ. Bởi vì tất cả chúng sanh đều có liên đới với nhau như anh em, bà con ruột thịt, cho nên sự khổ đau của chúng sanh cũng không khác gì sự khổ đau của chính mình.

Với Đại Thừa, lý tưởng A La Hán được thay thế bằng lý tưởng Bồ Tát, và từ bi được đề cao bởi những nhân vật như ngài Duy Ma Cật (Vimalakirti): “Sở dĩ Bồ Tát bệnh là bởi vì chúng sanh bệnh. Bao giờ chúng sanh khỏi bệnh, thì Bồ Tát cũng khỏi bệnh”. Trong Kinh cũng nhấn mạnh : “Có hai điều mà Bồ Tát phải ghi nhớ, là không bao giờ bỏ rơi chúng sanh, và nhìn thấy rõ rằng tất cả là Không”.

Có thể nói rằng từ bi có vững chắc được là nhờ nền tảng trí tuệ, và trí tuệ có phát triển được là nhờ ở từ bi.

Thiếu trí tuệ thì từ bi sẽ có thể chỉ là cảm xúc nhất thời, và thiếu từ bi thì trí tuệ khó lòng được thể hiện. Trong hành động cứu độ chúng sanh, con người từ bi tự quên mình, thực nghiệm được thêm Vô ngã, tánh Không, và tự mở mang thêm trí tuệ. Tới khi không còn phân biệt giữa người cứu độvà người được cứu độ, thì lúc bấy giờ đã tự giải thoát hoàn toàn.

Từ bi và trí tuệ đi đôi và gắn liền với nhau, vì từ nguồn trí tuệ mà suối từ bi tuôn chẩy, nhờ suối từ bi cho nên cây trí tuệ trổ hoa.

Như vậy, trong đạo Phật, từ bi và trí tuệ bổ túc cho nhau, nương vào nhau mà hiện hữu, cũng như hai mặt của một bàn tay, hay đôi cánh của một con chim.

Con chim bay xa, bay xa mãi, khi không còn thấy bờ bên này hay bên kia…

[Tác giả: Trịnh Nguyên Phước]